Tình hình chăn nuôi cả nước tháng 9/2023

Tình hình chung

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tháng 9 nhìn chung diễn ra trong điều kiện thuận lợi. Tình hình chăn nuôi trong 9 tháng năm 2023 không có biến động lớn, chăn nuôi lợn đạt kết quả tích cực dù vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, chăn nuôi gia cầm tiếp tục tăng do khu vực hộ và doanh nghiệp đều phát triển ổn định. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 9 năm 2023 tăng khoảng 4,2% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 3632,9 nghìn tấn, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2022.

Tình hình chăn nuôi trâu, bò trong 9 tháng năm 2023 không có biến động lớn, ngành chăn nuôi lợn có kết quả sản xuất tích cực, dù vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, chăn nuôi gia cầm tiếp tục tăng do khu vực hộ và doanh nghiệp đều phát triển ổn định. Người chăn nuôi yên tâm sản xuất khi giá bán ở mức có lãi.

Tình hình cụ thể như sau:

+ Chăn nuôi trâu, bò:

Tình hình chăn nuôi trâu, bò trong 9 tháng năm 2023 không có biến động lớn, đàn trâu tiếp tục xu hướng giảm do diện tích chăn thả thu hẹp, hiệu quả kinh tế không cao. Đàn bò tại nhiều tỉnh cũng đang giảm dần do nuôi bò không mang lại hiệu kinh tế cao như những năm trước. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê,ước tính tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 9 năm 2023 giảm khoảng 1,1%, tổng số bò tăng khoảng 0,6% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 90,6 nghìn tấn, tăng 0,1%; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 373,4 nghìn tấn, tăng 2,4%; sản lượng sữa bò tươi 9 tháng ước đạt 892,5 triệu lít, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2022. Sản lượng sữa bò 9 tháng năm 2023 đạt thấp do sản lượng sữa của Sơn La và TP. Hồ Chí Minh giảm so với cùng kỳ (sản lượng sữa bò của 2 tỉnh này chiếm gần 30% tổng sản lượng cả nước).

chăn nuôi bò

+ Chăn nuôi lợn:

Trong 9 tháng đầu năm 2023, mặc dù vẫn đối mặt với nhiều khó khăn nhưng chăn nuôi lợn vẫn phát triển. Giá thịt lợn hơi trong 9 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ năm trước2. Đến trung tuần tháng 9/2023, giá bán thịt lợn hơi tại các địa phương mặc dù đã tăng nhẹ so với các tháng trước nhưng người chăn nuôi chưa tái đàn do vẫn lo ngại nguy cơ bùng phát lại các ổ dịch tả lợn châu Phi. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 9 năm 2023 tăng khoảng 4,2% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 3632,9 nghìn tấn, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2022.

+ Chăn nuôi gia cầm:

Tổng đàn và sản lượng gia cầm 9 tháng tiếp tục tăng do khu vực hộ và doanh nghiệp đều phát triển ổn định. Người chăn nuôi yên tâm sản xuất khi giá bán ở mức có lãi 3. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 9 năm 2023 tăng khoảng 3,5% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượngthịt gia cầm hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 1737,2 nghìn tấn, tăng 6,0%; sản lượng trứng gia cầm 9 tháng ước đạt 14,2 tỷ quả, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2022.

* Theo kết quả điều tra chăn nuôi (kỳ 01/7/2023) của Tổng cục Thống kê: Tổng đàn lợn cả nước tại thời điểm 1/7/2023 đạt khoảng 25,5 triệu con, tổng đàn gia cầm cả nước đạt mức 549,7 triệu con. Kết quả khảo sát xu hướng chăn nuôi của 26,8 nghìn hộ nuôi lợn trên toàn quốc cho thấy: 2,88% số hộ dự kiến mở rộng sản xuất; 89,25% số hộ dự kiến ổn định sản xuất trong thời gian tới; 5,23% số hộ thu hẹp sản xuất; 2,68% số hộ không nuôi lợn nữa.

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong 9 tháng năm 2023 đạt 369 triệu USD, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2022. Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi trong 9 tháng năm 2023 đạt 2,58 tỷ USD, giảm 8,4% so với cùng kỳ năm 2022.

Thú y: Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến ngày 21/9/2023, tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cụ thể như sau:

– Dịch cúm gia cầm: Trong tháng 9/2023, cả nước không có báo cáo phát sinh ổ dịch cúm gia cầm (CGC). Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 16 ổ dịch CGC A/H5N1 tại 09 tỉnh, thành phố: Cao Bằng, Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Tiền Giang, Sóc Trăng; số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 30.712 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 52,94%, số gia cầm phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 60,45%. Hiện nay, cả nước không có dịch bệnh CGC.

– Dịch tả lợn châu Phi: Trong tháng 9/2023, cả nước phát sinh 38 ổ dịch tại 12 tỉnh, thành phố. Tổng số lợn bị tiêu hủy là 528 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 343 ổ dịch tại 38 tỉnh, thành phố; tổng số lợn bị tiêu hủy là 12.236 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 69,18%; số lợn phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 77,03%. Hiện nay, cả nước có 73 ổ dịch thuộc 40 huyện của 14 tỉnh chưa qua 21 ngày.

– Dịch viêm da nổi cục: Trong tháng 9/2023, cả nước phát sinh 01 ổ dịch tại tỉnh Đắk Lắk. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 86 ổ dịch tại 11 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 389 con, số gia súc tiêu hủy là 89 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 64,3%; số trâu, bò phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 80,3%. Hiện nay, cả nước có 03 ổ dịch tại các tỉnh Đắk Lắk, Bến Tre chưa qua 21 ngày.

– Dịch lở mồm long móng: Trong tháng 9/2023, có báo cáo phát sinh 01 ổ dịch tại tỉnh Đồng Tháp. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 20 ổ dịch tại 10 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 645 con, số gia súc tiêu hủy là 26 con. Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch tại tỉnh Đồng Tháp chưa qua 21 ngày.

– Bệnh tai xanh: Trong tháng 9/2023, cả nước không có báo cáo phát sinh ổ dịch tai xanh. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 03 ổ dịch tại tỉnh Cao Bằng; số lợn mắc bệnh là 95 con, số lợn chết và tiêu hủy là 75 con. Hiện nay, cả nước không có dịch bệnh tai xanh.

Thị trường chăn nuôi

Trên thị trường thế giới, giá thịt lợn nạc giao tháng 10/2023 ở Chicago, Mỹ biến động giảm, với mức giảm 1,025 UScent/lb, xuống mức 81,525 UScent/lb. Giá thịt lợn giảm do sức mua ở mức thấp.

Tại thị trường trong nước, trong tháng 9, giá lợn hơi trên cả nước biến động trái chiều. Tại khu vực miền Bắc, giá lợn hơi giảm 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 56.000 – 58.000 đồng/kg. Cụ thể, Hà Nội và Tuyên Quang cùng giao dịch ở mức 56.000 đồng/kg. Các địa phương khác duy trì thu mua lợn hơi với giá trong khoảng 56.000 – 58.000 đồng/kg.

Giá lợn hơi thị trường khu vực miền Trung, Tây Nguyên ổn định, dao động trong khoảng 55.000 – 57.000 đồng/kg. Trong đó, ở các tỉnh Bình Định, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Ninh Thuận và Bình Thuận đang thu mua lợn hơi với giá 55.000 đồng/kg; ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế và Khánh Hòa đang thu mua với giá 56.000 đồng/kg; các tỉnh còn lại neo ở ngưỡng 57.000 đồng/kg.

Tại miền Nam, giá lợn hơi giảm 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 55.000 – 58.000 đồng/kg. Trong đó, giá lợn hơi tại các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu là 58.000 đồng/kg – cao nhất khu vực. Lợn hơi tại các tỉnh còn lại được giao dịch trong khoảng 55.000 – 57.000 đồng/kg.

Giá thu mua gà thịt tại trại hầu hết tăng ở các vùng, miền trong tháng 9. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày ở miền Bắc tăng khoảng 1.000 – 2.000 đồng/kg, lên mức 58.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày ở miền Trung tăng 1.000 đồng/kg, lên mức 55.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày ở miền Nam tăng 1.000 đồng/kg, lên mức 42.000 – 43.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp ở cả ba miền đều tăng 1.000 đồng/kg, lên 31.000 đồng/kg.

Giá trứng gà ở miền Bắc ổn định ở mức 2.400 – 2.500 đồng/quả. Giá trứng gà ở miền Trung giữ mức 2.500 – 2.800 đồng/quả. Giá trứng gà ở Đông Nam bộ và Tây Nam bộ giảm 200 đồng/quả, xuống 2.000 – 2.200 đồng/quả.

Thị trường xuất khẩu

+ Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 9 ước đạt 45 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 9 tháng đầu năm 2023 đạt 369 triệu USD, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 101 triệu USD, tăng 23,6%; xuất khẩu thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 106 triệu USD, tăng 35,9%.

+ Xuất khẩu thức ăn chăn nuôi (đang cập nhật):

Thị trường nhập khẩu

+ Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi:

Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi trong tháng 9 ước đạt 298 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 9 tháng đầu năm 2023 đạt 2,58 tỷ USD, giảm 8,4% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa ước đạt 891 triệu USD, giảm 10,8%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 1,02 tỷ USD, giảm 3,6%.

+ Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu:

Giá trị nhập khẩu mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu trong tháng 9 ước đạt 450 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 9 tháng đầu năm 2023 đạt 3,85 tỷ USD, giảm 6,2% so với cùng kỳ năm 2022.

Trong 8 tháng đầu năm 2023, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường: Áchentina (chiếm 28,8% thị phần), Braxin (16,5%) và Hoa Kỳ (14%). So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ Áchentina giảm 10,3%, Braxin giảm 26,9% trong khi giá trị nhập khẩu từ Hoa Kỳ tăng 4,6%

+ Nhập khẩu đậu tương:

Khối lượng nhập khẩu đậu tương trong tháng 9 ước đạt 150 nghìn tấn với giá trị ước đạt 91 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 9 tháng đầu năm 2023 đạt 1,53 triệu tấn và 968 triệu USD, tăng 9,1% về khối lượng nhưng giảm 0,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.

Giá đậu tương nhập khẩu bình quân 9 tháng đầu năm 2023 ước đạt 635 USD/tấn, giảm 8,9% so với cùng kỳ năm 2022.

Braxin, Hoa Kỳ và Canađa là 3 thị trường cung cấp đậu tương chính cho Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2023 với tổng thị phần là 94%. So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu đậu tương của Việt Nam từ thị trường Hoa Kỳ tăng 24,6%; Canađa tăng 10,1%. Ngược lại, nhập khẩu đậu tương từ thị trường Braxin giảm 22,1%.

+ Nhập khẩu lúa mì:

Ước nhập khẩu lúa mì tháng 9 năm 2023 đạt 220 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu đạt 68 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 9 tháng đầu năm 2023 đạt 3,37 triệu tấn và 1,18 tỷ USD, tăng 3,9% về khối lượng nhưng giảm 5,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.

Giá lúa mì nhập khẩu bình quân 9 tháng đầu năm 2023 ước đạt 349 USD/tấn, giảm 9% so với cùng kỳ năm 2022.

Trong 8 tháng đầu năm 2023, nguồn nhập khẩu lúa mì chính của Việt Nam là từ các thị trường: Ôxtrâylia (chiếm tỷ trọng 75,9%), Hoa Kỳ (9,9%) và Braxin (9,2%). So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu lúa mì của Việt Nam từ Hoa Kỳ tăng 73,3%, trong khi nhập khẩu từ Braxin giảm 14,9%, Ôxtrâylia giảm 1,9%;

+ Nhập khẩu ngô:

Khối lượng ngô nhập khẩu trong tháng 9 ước đạt 1,05 triệu tấn với giá trị đạt 290 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 9 tháng đầu năm 2023 đạt 6,4 triệu tấn và 2 tỷ USD, giảm 4% về khối lượng và giảm 15,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.

Giá ngô nhập khẩu bình quân 9 tháng đầu năm 2023 ước đạt 313 USD/tấn, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm 2022.

Trong 8 tháng đầu năm 2023, nguồn nhập khẩu ngô của Việt Nam chủ yếu từ 3 thị trường Áchentina, Braxin và Ấn Độ với tổng thị phần chiếm 91,3%. So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu ngô từ Braxin gấp 3,7 lần, Ấn Độ tăng 63,2%, trong khi nhập khẩu từ Áchentina giảm 52,6%.

Nguồn: channuoivietnam.com

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *