Tình hình chăn nuôi cả nước tháng 10/2022

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong tháng 10/2022, đàn lợn và gia cầm cả nước phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát. Tuy nhiên, giá thành chăn nuôi hiện vẫn ở mức cao, gây áp lực lớn cho người chăn nuôi. Ước tính tổng đàn lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 10 năm 2022 tăng khoảng 13,6% so với cùng thời điểm năm 2021; tổng số gia cầm của cả nước ước tính tăng khoảng 5,2%.

Tình hình chung

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong tháng 10/2022, đàn lợn và gia cầm cả nước phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát. Tuy nhiên, giá thành chăn nuôi hiện vẫn ở mức cao, gây áp lực lớn cho người chăn nuôi. Ước tính tổng đàn lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 10 năm 2022 tăng khoảng 13,6% so với cùng thời điểm năm 2021; tổng số gia cầm của cả nước ước tính tăng khoảng 5,2%.

Tình hình chăn nuôi gia súc, gia cầm trong tháng 10 phát triển ổn định, dịch bệnh cơ bản được kiểm soát. Giá thịt lợn hơi trong tháng biến động giảm so với tháng trước, giá thịt gia cầm ở mức tương đương tháng trước. Giá thành chăn nuôi hiện vẫn ở mức cao do giá nguyên vật liệu, chi phí sản xuất đều tăng so với năm trước trong khi giá bán sản phẩm lại giảm, điều này khiến người chăn nuôi lợn càng thêm áp lực.

Theo số liệu tính toán của TCTK, tính đến cuối tháng 10/2022, tổng số trâu cả nước ước tính giảm 1%; tổng số bò ước tính tăng 3,3%; tổng số lợn ước tính tăng 13,6%; tổng số gia cầm ước tính tăng 5,2% so với cùng thời điểm năm 2021.

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 10 ước đạt 35,3 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 10 tháng đầu năm 2022 ước đạt 326,9 triệu USD, giảm 8,7% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 90,3 triệu USD, giảm 2,2%; thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 87,3 triệu USD, tăng 0,4%.

Thú y

Theo báo cáo của Cục Thú Y, tính đến ngày 24/10 tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm của cả nước cụ thể như sau:

– Dịch cúm gia cầm: Từ đầu năm 2022 đến nay, cả nước phát sinh 34 ổ dịch tại 29 huyện của 19 tỉnh, thành phố, trong đó: 31 ổ dịch CGC A/H5N1, 01 ổ dịch CGC A/H5N6, 02 ổ dịch CGC A/H5N8. Tổng số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 77.619 con. Trong tháng 10 cả nước phát sinh 01 ổ dịch CGC A/H5N1 tại Nghệ An. Hiện nay, ổ dịch CGC A/H5N1 tại Nghệ An chưa qua 21 ngày.

– Dịch tả lợn châu Phi: Từ đầu năm 2022 đến nay, cả nước phát sinh 1.132 ổ dịch tại 51 tỉnh, thành phố, buộc tiêu hủy 51.729 con lợn. Trong tháng 10, cả nước phát sinh 22 ổ dịch tại 18 huyện của 11 tỉnh. Tổng số lợn bị tiêu hủy là 728 con.

Hiện nay, cả nước có 53 ổ dịch tại 53 huyện của 18 tỉnh chưa qua 21 ngày; tổng lợn mắc bệnh là 3.164 con, tổng lợn chết và tiêu hủy là 3.259 con.

– Dịch Viêm da nổi cục: Từ đầu năm 2022 đến nay, cả nước phát sinh 238 ổ dịch tại 16 tỉnh, thành phố; số gia súc mắc bệnh là 2.248 con, buộc tiêu hủy 442 con trâu, bò. Trong tháng 10, cả nước phát sinh 03 ổ dịch Viêm da nổi cục tại Đắk Lắk, Tiền Giang và Bến Tre, tổng số gia súc bị mắc bệnh là 08 con, trong đó có 01 con bị chết. Hiện nay, cả nước có 05 ổ dịch tại 4 tỉnh Quảng Ngãi, Đắk Lắk, Tiền Giang và Bến Tre chưa qua 21 ngày; số gia súc mắc bệnh là 33 con; tổng gia súc chết và tiêu hủy là 6 con.

– Dịch Lở mồm long móng: Từ đầu năm 2022 đến nay, cả nước phát sinh 13 ổ dịch tại 09 huyện của 07 tỉnh, thành phố: Sơn La, Hà Nội, Thái Nguyên, Hà Tĩnh, Gia Lai, Đồng Nai và Đồng Tháp; số gia súc mắc bệnh là 87 con, số gia súc tiêu hủy là 01 con. Trong tháng 10, cả nước phát sinh 04 ổ dịch LMLM tại 02 tỉnh Hà Tĩnh và Gia Lai, với tổng số trâu, bò mắc bệnh là 119 con, không có gia súc chết và bị tiêu hủy.

Hiện nay, còn 4 xã thuộc 3 huyện của 2 tỉnh có dịch nhưng chưa qua 21 ngày. Số trâu, bò mắc bệnh là 119 con; không có con chết và tiêu hủy.

chăn nuôi

Thị trường chăn nuôi

Trong tháng 10/2022, giá thịt lợn tại miền Bắc và miền Trung tăng nhẹ, trong khi tại miền Nam diễn biến ổn định.

Trên thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 10/2022 ở Chicago, Mỹ biến động giảm trong tháng qua, với mức giảm 2,2 UScent/lb xuống mức 87,025 UScent/lb.

Tại thị trường trong nước, trong tháng 10, giá lợn hơi tại khu vực miền Bắc tăng, với mức tăng khoảng 3.000 đồng/kg. Cụ thể, tại Hà Nội giao dịch ở mức cao nhất khu vực là 61.000 đồng/kg, ngang bằng với Hưng Yên. Trong khi đó, tại các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Phú Thọ và Ninh Bình giao dịch ở mức 58.000 đồng/kg – mức giá thấp nhất khu vực. Giá lợn hơi tại các tỉnh/thành phố khác duy trì ổn định trong khoảng 59.000 – 60.000 đồng/kg.

Tại thị trường khu vực miền Trung, Tây Nguyên, giá thu mua lợn hơi dao động trong khoảng 55.000 – 62.000 đồng/kg, tăng nhẹ khoảng 2.000 đồng/kg. Cụ thể, tại Đắk Lắk, Bình Thuận giá thu mua tăng lên 56.000 đồng/kg; tại Ninh Thuận giao dịch ở mức 55.000 đồng/kg (thấp nhất khu vực). Ngoại trừ Quảng Nam và Quảng Ngãi đang neo tại ngưỡng 62.000 đồng/kg, các tỉnh/thành phố còn lại thu mua ở mức 57.000 – 60.000 đồng/kg.

Tại miền Nam, giá lợn hơi không có biến động mới. Lợn hơi tại hầu hết các tỉnh/thành phố đang được thu mua ở mức giá trung bình là 56.000 đồng/kg. Riêng tại Sóc Trăng, Kiên Giang giá thu mua là 53.000 đồng/kg (thấp nhất khu vực). Giá lợn hơi bình quân khu vực miền Nam dao động trong khoảng 53.000 – 59.000 đồng/kg.

Trong tháng 10, giá thu mua gà tại trại biến động trái chiều tại các vùng miền. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam giảm 4.000 – 5.000 đồng/kg, xuống mức 32.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp ở miền Bắc tăng 2.000 đồng/kg, lên 37.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp ở miền Trung và miền Nam tăng 4.000 đồng/kg, lên mức 33.000 đồng/kg. Giá trứng gà ở miền Bắc, miền Trung giữ ở mức 2.300 – 2.550 đồng/quả. Giá trứng gà ở miền Nam giảm 200 – 300 đồng/quả, xuống mức 2.200 – 2.400 đồng/quả.

Thị trường xuất khẩu

Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 10 ước đạt 35,3 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 10 tháng đầu năm 2022 ước đạt 326,9 triệu USD, giảm 8,7% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 90,3 triệu USD, giảm 2,2%; thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 87,3 triệu USD, tăng 0,4%.

Thị trường nhập khẩu

Sản phẩm chăn nuôi:

Ước giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 10 đạt 266,2 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 10 tháng đạt 2,73 tỷ USD, giảm 5,2% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 1,08 tỷ USD, tăng 7,6%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 1,2 tỷ USD, tăng 0,6%.

Thức ăn gia súc và nguyên liệu:

Ước giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 10 đạt 500 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 10 tháng đạt 4,57 tỷ USD, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm 2021.

Trong 9 tháng đầu năm 2022, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường: Achentina (chiếm 30,8% thị phần), Braxin (20,4%) và Hoa Kỳ (12,4%). So với cùng kỳ năm 2021, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ Achentina giảm 1,5%, Braxin (+80,4%) và Hoa Kỳ (-20,7%)

 Đậu tương

Khối lượng đậu tương nhập khẩu tháng 10 ước đạt 160 nghìn tấn, giá trị đạt 109,5 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 10 tháng đạt 1,56 triệu tấn và 1,08 tỷ USD, giảm 8,3% về khối lượng nhưng tăng 9,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021.

Braxin, Hoa Kỳ và Canada là 3 thị trường cung cấp đậu tương chính cho Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2022 với 99,4% thị phần.

Lúa mì

Ước tính khối lượng nhập khẩu lúa mì tháng 10 đạt 50 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu đạt 22,3 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 10 tháng đạt gần 3,3 triệu tấn và 1,27 tỷ USD, giảm 15,6% về khối lượng nhưng tăng 12,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021.

Nguồn nhập khẩu lúa mì chính của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2022 là từ các thị trường: Ôxtrâylia (chiếm tỷ trọng 73,9%), Braxin (9%) và Hoa Kỳ (7,6%). So với cùng kỳ năm 2021, giá trị nhập khẩu lúa mì của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2022 từ Ôxtrâylia tăng 17,5%; Braxin (+104,6%) và Hoa Kỳ (+59,9%).

Ngô

Ước tính khối lượng ngô nhập khẩu tháng 10 đạt 700 nghìn tấn với giá trị đạt 228,3 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 10 tháng đạt 7,37 triệu tấn và 2,6 tỷ USD, giảm 13,1% về khối lượng nhưng tăng 8,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021.

Nguồn nhập khẩu ngô trong 9 tháng đầu năm 2022 chủ yếu là từ 3 thị trường: Achentina, Ấn Độ và Braxin, chiếm 81,2% thị phần. So với cùng kỳ năm 2021, giá trị nhập khẩu ngô trong 9 tháng đầu năm 2022 từ Achentina tăng 28,2%, Ấn Độ (-27%) và Braxin (-50,7%)

Nguồn: channuoivietnam.com

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *