(Người Chăn Nuôi) – Năm 2024, ngành gia cầm trứng Việt Nam đạt sản lượng trên 13 tỷ quả. Dù tăng trưởng ấn tượng, tuy nhiên ngành hàng này vẫn phải đối mặt sức ép lớn từ nhập khẩu giống, thức ăn và hạn chế trong chế biến.
Tăng trưởng ấn tượng, dư địa lớn
Ngành chăn nuôi Việt Nam, trong đó gia cầm trứng là một mảnh ghép quan trọng vừa ghi nhận những con số ấn tượng về sản lượng và giá trị, vừa bộc lộ nhiều rủi ro tiềm ẩn. Năm 2024, giá trị sản xuất toàn ngành chăn nuôi đạt khoảng 550.000 tỷ đồng (xấp xỉ 22 tỷ USD), đóng góp gần 5% GDP quốc gia và đảm bảo nguồn thực phẩm cho hơn 100 triệu dân. Trong bối cảnh này, sản lượng trứng công nghiệp và đàn gia cầm tiếp tục tăng đều, tạo dư địa cho xuất khẩu và chế biến sâu.
Sức tăng của ngành rõ rệt ở con số sản lượng trứng: theo báo cáo, sản lượng trứng gà của Việt Nam năm 2024 đạt khoảng hơn 13,5 tỷ quả, đây là bước tiến đáng kể trong thập kỷ gần đây. Tốc độ tăng đàn và sản lượng trung bình duy trì ở mức 5 – 6%/năm, phản ánh nỗ lực mở rộng quy mô và áp dụng kỹ thuật trong chăn nuôi công nghiệp.
Sản lượng trứng gà, vịt của thế giới và Việt Nam. Ảnh: Nguyễn Quốc Đạt
Thị trường trong nước còn dư địa lớn khi mức tiêu thụ trứng bình quân các nước đang phát triển khoảng 8,9 kg/người, các nước phát triển lên tới 13,8 kg/người; Việt Nam với dân số trên 100 triệu người đang trên đà tăng trưởng tiêu dùng, dự báo tới 2030 mức tiêu thụ trứng có thể đạt 250 quả/người. Đồng thời, công nghệ trong các trại chăn nuôi công nghiệp ngày càng hiện đại, các kênh xuất khẩu chính ngạch dần được khơi thông. Đây là tiền đề để phát triển chuỗi giá trị trứng từ giống, chế biến đến xuất khẩu.
Một số thách thức
Chia sẻ tại Hội thảo Tối ưu hóa dinh dưỡng cho gà đẻ trứng, cải thiện sức khỏe đàn gà và nâng cao năng suất, chất lượng trứng tổ chức hồi tháng 8/2025 tại TP. Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Quốc Đạt, Phó Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam, cho rằng điểm yếu cấu trúc của ngành cũng rất rõ, như phụ thuộc mạnh vào nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi (TĂCN) nhập khẩu. Ước tính khoảng 70% nguyên liệu thô cho thức ăn tinh cả nước là nhập khẩu; tỷ lệ này lên tới khoảng 90% cho thức ăn hỗn hợp công nghiệp. Chi phí logistics cao (trên 10% giá thành thức ăn, so với mức trung bình thế giới khoảng 5%) làm đội giá thành sản phẩm và giảm sức cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, hệ thống giống gia cầm chưa chủ động hoàn toàn. Năng suất đàn giống nội địa chỉ đạt 80 – 85% so với các nước tiên tiến; phần lớn giống gà cao sản hướng trứng phải nhập ngoại. Mục tiêu đặt ra đối với đàn giống nội địa là khoảng 5 triệu con, trong khi đàn giống nhập ngoại vẫn dao động 4 – 4,8 triệu con, điều này cho thấy khoảng trống cần lấp đầy bằng chính sách và đầu tư.
Sản lượng trứng gà của Việt Nam theo khu vực. Ảnh: Nguyễn Quốc Đạt
Rủi ro dịch bệnh cũng luôn là mối lo thường trực. Mặc dù 6 tháng đầu 2025, trên cả nước chưa ghi nhận dịch lớn, tuy nhiên các bệnh như cúm gia cầm, bạch lỵ, Marek và một số virus khác vẫn có thể ảnh hưởng đến năng suất gà đẻ và chất lượng đàn nếu không được kiểm soát chặt chẽ. Đây là lý do ngành đặt mục tiêu “không để dịch bệnh lớn xảy ra” trong các kế hoạch của năm 2025.
Mặt khác, cấu trúc sản xuất manh mún cũng là thách thức: chăn nuôi quy mô nhỏ hiện vẫn chiếm tỷ trọng cao (khoảng 38%), nhiều hộ chưa thực hiện xử lý chất thải, quản lý môi trường chưa hiệu quả. Hệ thống chế biến còn hạn chế; tỷ lệ giết mổ tập trung và chế biến công nghiệp chưa cao, dẫn đến giá trị gia tăng của sản phẩm trứng và gia cầm còn thấp. Hiện chỉ có vài nhà máy chế biến trứng, công suất chế biến sâu chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng sản lượng.
Giải pháp bứt phá
Phó Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam Nguyễn Quốc Đạt nhấn mạnh, trong bối cảnh hiện nay, bài toán chính sách và đầu tư trở nên cấp thiết. Ông đề xuất một số giải pháp then chốt như: củng cố quản lý hệ thống giống quốc gia (đảm bảo áp lực chọn lọc, cơ cấu đàn, kiểm soát dịch), tăng cường năng lực cơ sở nuôi giữ giống.
Cùng với đó, cần xây dựng chương trình trọng điểm cho chế biến sâu và xuất khẩu trứng, đổi mới công nghệ và phát triển chuỗi sản xuất khép kín kể cả thúc đẩy sản xuất tuần hoàn, sử dụng phụ, phế phẩm nông – công nghiệp làm nguyên liệu thay thế.
Ngoài ra, theo ông Đạt, cần tháo gỡ những hạn chế trong chính sách nhập khẩu sản phẩm hoàn chỉnh nhằm bảo vệ sản xuất trong nước, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển.
Ngành gia cầm trứng Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ hoặc bứt phá bằng đổi mới công nghệ, chủ động nguồn giống và thức ăn, đẩy mạnh chế biến để nâng giá trị gia tăng; hoặc chậm chân và chịu sức ép từ nhập khẩu, dịch bệnh và thị trường quốc tế. Ông Nguyễn Quốc Đạt cho rằng, chỉ có chiến lược phát triển bền vững mới giúp ngành gia cầm trứng vượt qua “ngưỡng mong manh” và tận dụng được cơ hội vàng trong những năm tới.
Thùy Khánh