TĂCN: Chủ động nguồn nguyên liệu nội địa

(Người Chăn Nuôi) – Theo các chuyên gia, bên cạnh các giải pháp về chính sách thuế, thương mại, đã đến lúc Việt Nam cần có một chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi (TĂCN) trong nước một cách căn cơ, bài bản.

Chăn nuôi tăng trưởng mạnh

Sáng 12/8, Phòng Nông nghiệp Ðại sứ quán Mỹ, Hiệp hội Chăn nuôi Gia cầm Việt Nam (VIPA) và Tổ chức CropLife châu Á tổ chức Hội thảo trực tuyến “Tìm giải pháp bổ sung nguồn cung cấp nguyên liệu TĂCN tại Việt Nam”.

hội thảo trực tuyến giải pháp cung cấp nguyên liệu thức ăn chăn nuôi

Chia sẻ tại Hội thảo, TS. Nguyễn Thanh Sơn, Chủ tịch VIPA cho biết: “Trong 10 năm gần đây, ngành chăn nuôi Việt Nam tăng trưởng rất ấn tượng, bình quân 5 – 6%/năm. Trong đó ngành gia cầm có sự tăng trưởng nhanh nhất, đạt bình quân 7 – 8%/năm về đầu con và 11 – 12% về sản lượng thịt, trứng. Cùng với tăng trưởng của ngành chăn nuôi, ngành sản xuất TĂCN công nghiệp ở Việt Nam cũng tăng trưởng ngoạn mục, đạt bình quân 13 – 15%/năm. Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ 10 thế giới và số 1 khu vực Ðông Nam Á về sản lượng TĂCN công nghiệp”.

Tuy nhiên, cũng theo TS. Nguyễn Thanh Sơn, ngành sản xuất và tiêu thụ TĂCN công nghiệp của nước ta hiện nay vẫn đang phải phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài. Ðây chính là nguyên nhân đẩy giá TĂCN trong nước tăng cao mỗi khi giá TĂCN thế giới biến động mạnh.

Mặc dù là nước đứng top đầu thế giới về sản xuất, xuất khẩu lương thực nhưng hàng năm Việt Nam phải nhập khẩu 70 – 85% nguyên liệu TĂCN từ nước ngoài. Sở dĩ lượng nhập khẩu ngày càng gia tăng là do mỗi năm nước ta chỉ có thể cung ứng được 4,5 – 5 triệu tấn bắp hạt, 4 triệu tấn cám, 4 triệu tấn khoai mì làm TĂCN, trong khi nhu cầu lên đến 26 – 27 triệu tấn.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2020, giá trị kim ngạch nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu tăng 3,75%. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2021, tỷ lệ này tăng 36,6% so cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân đẩy giá trị nhập khẩu tăng là do nguồn cung nguyên liệu TĂCN trên thế giới giảm, sản lượng một số loại ngũ cốc chính của một số quốc gia sụt giảm do thiên tai. Ðại dịch COVID-19 cũng khiến chi phí vận chuyển tăng cộng với nguồn cung trong nước còn hạn chế.

 

Cần một chiến lược bài bản

Theo dự báo của VIPA, nhu cầu nguyên liệu TĂCN để chế biến công nghiệp trong 5 năm tới khoảng 28 – 30 triệu tấn/năm (chưa tính nguyên liệu TĂCN tự phối trộn là khoảng 7 – 8 triệu tấn/năm), trong đó hơn một nửa sản lượng nguyên liệu TĂCN (14,5 – 15 triệu tấn) sẽ dành cho gia cầm. Tuy nhiên, nguồn cung và giá nguyên liệu TĂCN trên thế giới rất khó dự đoán trong thời gian tới, nhất là trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang diễn biến rất phức tạp trên phạm vi toàn cầu, có thể tiếp tục làm đứt gãy chuỗi sản xuất và cung ứng.

nguyên liệu thức ăn chăn nuôi

Ảnh: Farmgh

Trước tình trạng đó, nhiều chuyên gia cho rằng, bên cạnh các giải pháp về chính sách thuế, thương mại, đã đến lúc Việt Nam cần có một chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu TĂCN trong nước một cách căn cơ, bài bản. Theo đó, cần có nhiều giải pháp đồng bộ, mà một trong các giải pháp đó là phát triển các loại cây trồng ứng dụng công nghệ sinh học làm nguyên liệu TĂCN có năng suất và sản lượng cao nhằm bổ sung thêm nguồn cung nguyên liệu TĂCN để đáp ứng được nhu cầu và hạ giá thành sản xuất trong nước.

Bà Ðinh Thị Thúy Phương, Vụ Thống kê giá (Tổng cục Thống kê) cho biết, cần có nhiều giải pháp đồng bộ để khắc phục nguy cơ khan thiếu TĂCN như tận dụng nguồn nguyên phụ phẩm của các ngành như thủy hải sản…  Bên cạnh đó, các doanh nghiệp sản xuất TĂCN trong nước cần tối đa hóa nguồn nguyên nhiên vật liệu trong nước và dần thay thế nguồn nguyên liệu nhập khẩu, giảm giá thành bằng cách tận dụng các nguồn cung nguyên liệu từ địa phương.

Nhiều chuyên gia cũng đề nghị Việt Nam nên hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển các loại cây trồng ứng dụng công nghệ sinh học, chẳng hạn như bắp, đậu tương chuyển gen để làm nguyên liệu TĂCN có năng suất và sản lượng cao, nhằm bổ sung thêm nguồn cung nguyên liệu TĂCN, đáp ứng mục tiêu hạ giá thành sản xuất trong nước.

Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng Việt Nam nhận định, hiện tại năng suất của các giống ngô lai truyền thống đã tới hạn, do đó, việc đưa vào sản xuất các giống ngô biến đổi gen với năng suất cao và khả năng chống chịu tốt hơn đồng thời mở rộng diện tích canh tác ngô sẽ là các giải pháp cơ bản để tăng sản lượng ngô sản xuất trong nước. Báo cáo phát hành gần đây về “Tác động kinh tế xã hội của ngô biến đổi gen giai đoạn 2015 – 2019 tại Việt Nam” cho thấy, ngô biến đổi gen đã giúp tăng năng suất thu hoạch thêm 30,4% (tương đương tăng thêm 2,03 tấn hạt tươi/ha hay 1,27 tấn hạt khô đã bỏ lõi/ha) so các giống ngô lai truyền thống. Như vậy nếu mở rộng diện tích gieo trồng các giống ngô này, tiềm năng bổ sung thêm nguồn cung ngô hạt trong chuỗi TĂCN càng lớn. Bên cạnh đó, ngô biến đổi gen cũng đang giúp nâng cao thu nhập ở cấp độ nông hộ từ 3,75 – 6,65 triệu đồng/ha. Ðây là lợi ích đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh của đại dịch COVID-19, khi đảm bảo sinh kế cho nông dân, đẩy mạnh chuỗi cung ứng tại chỗ và đảm bảo an ninh lương thực đang là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia, trong đó có Việt Nam.

>> Thị trường TĂCN Việt Nam được dự báo sẽ đạt hàng chục tỷ USD trước năm 2022. Tuy nhiên, ngành sản xuất này luôn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, dẫn tới tình trạng thiếu ổn định, dễ bị tổn thương khi có sự cố.

Vũ Mưa

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *