Tình hình chăn nuôi cả nước tháng 11/2025

Tình hình chung

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong tháng 11, cả nước tập trung khôi phục đàn gia súc do ảnh hưởng của dịch bệnh. Các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên đang nỗ lực, khẩn trương khắc phục thiệt hại, hậu quả của thiên tai, bão lũ, sớm ổn định sản xuất và đời sống. Chăn nuôi lợn đang dần phục hồi sau ảnh hưởng của dịch tả lợn Châu Phi, song tốc độ hồi phục còn chậm do ảnh hưởng của mưa bão, lũ lụt và tâm lý thận trọng trong tái đàn; chăn nuôi gia cầm tăng khá do các điều kiện sản xuất tương đối thuận lợi, dịch bệnh được kiểm soát tốt, không bùng phát các ổ dịch dịch bệnh gia cầm lớn, giá bán sản phẩm ở mức ổn định. Ước tính đến cuối tháng 11/2025, đàn lợn của cả nước tăng 0,3% so với cùng kỳ năm trước; đàn gia cầm tăng 2,8%. Tình hình cụ thể:

Chăn nuôi lợn:

Chăn nuôi lợn tại một số địa phương bắt đầu phục hồi sau ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi. Tuy nhiên, tại các tỉnh miền Trung, quá trình tái đàn bị gián đoạn, quy mô chăn nuôi bị thu hẹp, khả năng khôi phục sản xuất gặp nhiều khó khăn do chịu tác động nặng nề của mưa lũ. Tổng đàn lợn cả nước tháng 11/2025 ước tính tăng nhẹ 0,3% so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có số lượng lợn tăng so với cùng kỳ năm 2024 như Tây Ninh tăng 21,3%; Gia Lai tăng 13,9%; Sơn La tăng 10%, Đồng Nai tăng 2,4%.

Chăn nuôi gia cầm:

Chăn nuôi gia cầm nhìn chung ổn định. Tổng đàn gia cầm của cả nước tháng 11/2025 ước tính tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó đàn gà tăng 3,6%. Một số địa phương có mức tăng khá như Nghệ An tăng 7%; Thanh Hóa tăng 6,3%; Phú Thọ tăng 3,8%; Đồng Nai tăng 2,9%; và Hà Nội tăng 1,2%. Trong khi đó, một số địa phương có số đàn gia cầm giảm do chịu ảnh hưởng của mưa lũ kéo dài như Khánh Hòa giảm 9,4%…

Chăn nuôi trâu, bò:

Tổng đàn trâu cả nước tháng 11/2025 ước giảm 4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số tỉnh có số lượng trâu giảm như Thanh Hóa giảm 13,2%; Lai Châu giảm 3,1%; Tuyên Quang giảm 2,6%; Phú Thọ giảm 2,5%.

Tương tự, tổng đàn bò cả nước tháng 11/2025 ước giảm 1,1% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, Quảng Ngãi giảm 2,7%; Phú Thọ giảm 2,9%; và Vĩnh Long giảm 0,9%. Tuy nhiên, tại một số tỉnh, đàn bò vẫn tăng nhờ thị trường tiêu thụ ổn định và hệ thống trang trại công nghệ cao phát triển như: Nghệ An tăng 2,4%; Lâm Đồng tăng 2,1%.

– Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi

Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 11 năm 2025 ước đạt 53,5 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi 11 tháng đầu năm 2025 đạt 567,4 triệu USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 125,8 triệu USD, tăng 10,9%; xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 185,3 triệu USD, tăng 20,8%.

– Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi

Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 11 năm 2025 ước đạt 365,7 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 11 tháng đầu năm 2025 đạt 4,01 tỷ USD, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 1,27 tỷ USD, tăng 23,7%; nhập khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 1,78 tỷ USD, tăng 14,2%.

– Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu

Giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 11 năm 2025 ước đạt 320 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 11 tháng đầu năm 2025 đạt 4,18 tỷ USD, giảm 5,8% so với cùng kỳ năm trước.

Về thú y: Theo Cục Chăn nuôi và Thú y, tính đến cuối tháng 11 tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm như sau:

– Bệnh Cúm gia cầm (CGC): Cả nước có 08 ổ dịch bệnh CGC tại 05 tỉnh/Tp (Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Ngãi, Đồng Tháp và Cà Mau) chưa qua 21 ngày. Luỹ kế từ đầu năm 2025 đến nay, cả nước xảy ra 48 ổ dịch CGC tại 15 tỉnh/TP; số gia cầm tiêu huỷ là 104.044 con;

– Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: Cả nước có 402 ổ dịch thuộc 31 tỉnh/Tp có bệnh DTLCP chưa qua 21 ngày. Lũy kế từ đầu năm 2025 đến nay, cả nước xảy ra 2.495 ổ dịch thuộc 34 tỉnh/Tp với tổng số lợn tiêu hủy là 1.234.813 con;

– Bệnh Lở mồm long móng: Cả nước 04 ổ dịch bệnh Lở mồm long móng tại 02 tỉnh Tuyên Quang và Sơn La chưa qua 21 ngày. Luỹ kế từ đầu năm 2025 đến nay, cả nước xảy ra 17 ổ dịch LMLM thuộc 09 tỉnh, số gia súc mắc bệnh là 3456 con, số gia súc chết và tiêu huỷ là 42 con;

– Bệnh Tai xanh: Cả nước không có ổ dịch bệnh Tai xanh. Luỹ kế từ đầu năm 2025 đến nay, cả nước xảy ra 01 ổ dịch;

– Bệnh Viêm da nổi cục: Cả nước có 01 ổ dịch bệnh Viêm da nổi cục tại tỉnh Nghệ An chưa qua 21 ngày. Luỹ kế từ đầu năm 2025 đến nay, cả nước xảy ra 86 ổ dịch tại 12 tỉnh/Tp, số gia súc mắc bệnh là 326 con, số chết và tiêu huỷ là 142 con;

– Bệnh Dại động vật: Cả nước có 17 ổ dịch bệnh Dại động vật tại 07 tỉnh/Tp (Lào Cai, Nghệ An, Đắk Lắk, Đồng Nai, Tây Ninh, Đồng Tháp và Vĩnh Long) chưa qua 21 ngày. Luỹ kế từ đầu năm 2025 đến nay, cả nước xảy ra 271 ổ dịch bệnh Dại tại 24 tỉnh/TP, số động vật tiêu huỷ bắt buộc là 335 con.

tình hình chăn nuôi tháng 11

Thị trường chăn nuôi

Giá thu mua lợn hơi trong nước giảm trong 20 ngày đầu tháng và tăng trở lại vào những ngày cuối tháng 11/2025. So với tháng 10/2025, giá lợn hơi tại miền Bắc giảm nhẹ 100 đồng/kg xuống còn 52.000 – 54.000 đồng/kg. Giá lợn hơi miền Trung – Tây Nguyên giảm 900 đồng/kg, dao động trong khoảng 49.000 – 53.000 đồng/kg.

Giá lợn hơi miền Nam tăng 900 đồng/kg, hiện đang ở mức 51.000 – 54.000 đồng/kg. Đầu tháng, giá lợn hơi giảm trong do người tiêu dùng e ngại dịch tả lợn châu Phi làm giảm nhu cầu tiêu thụ thịt lợn. Tuy nhiên, giá lợn hơi tăng trở lại trong những ngày cuối tháng do nguồn cung hộ chăn nuôi nhỏ lẻ giảm mạnh.

Giá thu mua gà thịt lông màu biến động trái chiều tại ba miền. Giá gà thịt lông màu miền Bắc giữ mức 58.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu miền Trung giảm 8.300 đồng/kg, hiện ở mức 53.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu miền Nam giảm 3.800 đồng/kg xuống còn 55.000 đồng/kg.

Giá gà công nghiệp biến động giảm tại ba miền. Giá gà công nghiệp miền Bắc giảm 5.000 đồng/kg xuống còn 33.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Trung giảm 11.000 đồng/kg xuống mức 29.000 đồng/kg Giá gà công nghiệp miền Nam giảm 9.000 đồng/kg, hiện là 31.000 đồng/kg.

Giá thu mua trứng gà biến động tăng tại ba miền. Giá trứng gà miền Bắc tăng 480 đồng/quả lên 2.700 đồng/quả. Giá trứng gà miền Trung tăng 280 đồng/quả, hiện ở mức 2.510 đồng/quả. Giá trứng gà miền Nam tăng 350 đồng/quả lên 2.420 đồng/quả. Giá trứng tăng do mưa lũ kéo dài và việc nhiều hộ giảm đàn làm nguồn cung trứng giảm mạnh. Bên cạnh đó, việc nhiều cơ sở đang thu mua trứng để sản xuất bánh kẹo dịp Tết cũng khiến giá trứng tăng.

Trong tháng 11/2025, giá thịt lợn kỳ hạn tháng 12/2025 giao dịch trên sàn CME (sau đây gọi tắt là giá thịt lợn) biến động giảm với mức giảm 0,85 US cent/lb xuống còn 80,425 US cent/lb. Giá thịt lợn giảm do nguồn cung thịt lợn tăng.

Tương tự, giá bò hơi kỳ hạn tháng 12/2025 giao dịch trên sàn CME (sau đây gọi tắt là giá bò hơi) giảm 18,65 US cent/lb xuống còn 211,025 US cent/lb. Giá bò hơi chịu áp lực từ việc Mỹ bãi bỏ thuế quan đối với thịt bò Brazil và dự kiến thịt bò Brazil sẽ được nhập khẩu trở lại vào Mỹ. Bên cạnh đó, những thông tin về việc chính phủ Mỹ đang xem xét mở lại biên giới Mỹ/Mexico cho gia súc Mexico nhập khẩu lại vào Mỹ cũng khiến giá bò hơi giảm.

Thị trường xuất nhập khẩu

– Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi

Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 11 năm 2025 ước đạt 53,5 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi 11 tháng đầu năm 2025 đạt 567,4 triệu USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 125,8 triệu USD, tăng 10,9%; xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 185,3 triệu USD, tăng 20,8%.

– Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi

Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 11 năm 2025 ước đạt 365,7 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 11 tháng đầu năm 2025 đạt 4,01 tỷ USD, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 1,27 tỷ USD, tăng 23,7%; nhập khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 1,78 tỷ USD, tăng 14,2%.

– Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu

Giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 11 năm 2025 ước đạt 320 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 11 tháng đầu năm 2025 đạt 4,18 tỷ USD, giảm 5,8% so với cùng kỳ năm trước.

Nguồn nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chính là các thị trường Áchentina, Hoa Kỳ và Braxin với thị phần lần lượt là 38,5%, 17,5% và 11%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 10 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Áchentina tăng 12,4%, trong khi thị trường Hoa Kỳ giảm 15,7%, thị trường Braxin giảm 19,1%. Trong nhóm 15 thị trường nhập khẩu lớn nhất, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng mạnh nhất ở thị trường Canađa với mức tăng 59% và giảm mạnh nhất ở thị trường Hàn Quốc với mức giảm 19,1%.

– Nhập khẩu ngô

Khối lượng nhập khẩu ngô tháng 11 năm 2025 ước đạt 900 nghìn tấn với giá trị đạt 212,6 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 11 tháng đầu năm 2025 đạt 10,4 triệu tấn và 2,59 tỷ USD, giảm 6,2% về khối lượng và giảm 4% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.

Giá ngô nhập khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2025 ước đạt 248,5 USD/tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước.

Áchentina và Braxin là 2 thị trường cung cấp ngô chính cho Việt Nam với thị phần lần lượt là 52,1% và 29,4%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu ngô 10 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Áchentina giảm 3,4% và thị trường Braxin giảm 9,3%.

– Nhập khẩu đậu tương

Khối lượng nhập khẩu đậu tương tháng 11 năm 2025 ước đạt 100 nghìn tấn với giá trị đạt 50,3 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 11 tháng đầu năm 2025 đạt 2,3 triệu tấn và 1,05 tỷ USD, tăng 14,1% về khối lượng và tăng 3,7% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.

Giá đậu tương nhập khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2025 ước đạt 466,6 USD/tấn, giảm 9,2% so với cùng kỳ năm trước.

Việt Nam chủ yếu nhập khẩu đậu tương từ 2 thị trường Braxin và Hoa Kỳ với tỷ trọng giá trị nhập khẩu từ 2 thị trường này lần lượt là 55,9% và 35%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu đậu tương 10 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Braxin tăng 4,8% và thị trường Hoa Kỳ tăng 16,3%.

– Nhập khẩu lúa mì

Khối lượng nhập khẩu lúa mì tháng 11 năm 2025 ước đạt 500 nghìn tấn với giá trị đạt 136,1 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 11 tháng đầu năm 2025 đạt 5,2 triệu tấn và 1,4 tỷ USD, giảm 2,9% về khối lượng và giảm 5,5% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.

Giá lúa mì nhập khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2025 ước đạt 267,6 USD/tấn, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước.

Nguồn cung cấp lúa mì chính của Việt Nam là từ các thị trường Ôxtrâylia với thị phần 26,4%, Braxin 20,1%, Hoa Kỳ 16,1%, và Ucraina 13,6%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu lúa mì 10 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Ôxtrâylia tăng 14,5%, thị trường Hoa Kỳ tăng 47,1%, trong khi thị trường Braxin và thị trường Ucraina giảm lần lượt giảm 13,2% và 51,2%.

Nguồn: Channuoivietnam.com

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *