Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong tháng 4/2023, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định. Chăn nuôi lợn trong tháng 4 vẫn gặp khó khăn do giá nguyên liệu đầu vào vẫn tiếp tục tăng, giá bán các loại sản phẩm không ổn định, lợi nhuận của người chăn nuôi đang bị giảm mạnh. Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát. Ước tính tổng số lợn của cả nước đến thời điểm cuối tháng 4 năm 2023 tăng 3,7% so với cùng thời điểm năm 2022; tổng số gia cầm tăng 2% so với cùng thời điểm năm 2022.
Tình hình chung
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong tháng 4/2023, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định. Chăn nuôi lợn trong tháng 4 vẫn gặp khó khăn do giá nguyên liệu đầu vào vẫn tiếp tục tăng, giá bán các loại sản phẩm không ổn định, lợi nhuận của người chăn nuôi đang bị giảm mạnh. Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát. Ước tính tổng số lợn của cả nước đến thời điểm cuối tháng 4 năm 2023 tăng 3,7% so với cùng thời điểm năm 2022; tổng số gia cầm tăng 2% so với cùng thời điểm năm 2022.
Tình hình chăn nuôi nói chung vẫn gặp nhiều khó khăn do: Dịch bệnh trên đàn vật nuôi tiềm ẩn nguy cơ bùng phát cao trong tình hình thời tiết nồm ẩm kéo dài; dịch Covid-19 vẫn chưa kết thúc; giá nguyên liệu đầu vào vẫn tiếp tục tăng nhưng giá xuất bán các loại sản phẩm không ổn định, lợi nhuận của người chănnuôi đang bị giảm mạnh.
– Chăn nuôi trâu, bò: Đàn trâu, bò cả nước trong tháng phát triển tương đối ổn định. Theo Tổng cục Thống kê ước tính tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Tư năm 2023 giảm khoảng 2,3% so với cùng thời điểm năm 2022; tổng số bò tăng khoảng 1,6%.
– Chăn nuôi lợn: Chăn nuôi lợn hiện gặp nhiều khó khăn do: dịch bệnh trên đàn vật nuôi tiềm ẩn nguy cơ bùng phát cao trong tình hình thời tiết nồm ẩm kéo dài; giá nguyên liệu đầu vào vẫn tiếp tục tăng. Theo Tổng cục Thống kê ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Tư năm 2023 tăngkhoảng 3,7% so với cùng thời điểm năm 2022.
– Chăn nuôi gia cầm: Nhìn chung, đàn gia cầm cả nước phát triển ổn định trong tháng Tư. Hiện nay, một số trang trại nuôi gà thịt đã kết nối được các doanh nghiệp tiêu thụ, tạo thành chuỗi khép kín từ trang trại đến bàn ăn, góp phần thúc đẩy hoạt động chăn nuôi phát triển. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Tư năm 2023 tăng khoảng 2,0% so với cùng thời điểm năm 2022.
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 4 năm 2023 ước đạt 41,2 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 4 tháng đầu năm 2023 đạt 149,1 triệu USD, tăng 39,9% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 41,5 triệu USD, tăng 14,4%; thịt và phụ phẩmdạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 45,3 triệu USD, tăng 63,7%.
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 4 năm 2023 ước đạt 305,8 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 4 tháng đầu năm 2023 đạt 1,08 tỷ USD, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 436,6 triệu USD, giảm 3%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 407,5 triệu USD, tăng 1%.
– Thú y: Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến ngày 25/4/2023, tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cụ thể như sau:
- Dịch Cúm gia cầm (CGC): Trong tháng 4/2023, cả nước không phát sinh ổ dịch CGC. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 06 ổ dịch CGC A/H5N1 tại 04 tỉnh: Nghệ An, Cao Bằng, Quảng Ninh và Ninh Bình. Hiện nay, cả nước không có ổ dịch CGC.
– Dịch Lở mồm long móng (LMLM): Trong tháng 4/2023, cả nước không phát sinh ổ dịch LMLM. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 16 ổ dịch tại 07 tỉnh, số gia súc mắc bệnh là 589 con, số gia súc tiêu hủy là 21 con. Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch LMLM tại Bến Tre chưa qua 21 ngày.
– Dịch Tai xanh: Từ đầu năm đến nay, cả nước không phát sinh ổ dịch Tai xanh.
– Dịch Tả lợn châu Phi: Trong tháng 4/2023, cả nước phát sinh 17 ổ dịch tại 10 tỉnh. Tổng số lợn bị tiêu hủy là 593 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 104 ổ dịch tại 28 tỉnh; tổng số lợn bị tiêu hủy là 4.073 con. Hiện nay, có 22 xã tại 13 tỉnh có dịch chưa qua 21 ngày.
– Dịch viêm da nổi cục (VDNC): Trong tháng 4/2023, cả nước phát sinh 09 ổ dịch tại 02 tỉnh Quảng Ngãi và Hà Tĩnh. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 43 ổ dịch tại 06 tỉnh Số gia súc mắc bệnh là 242 con, số gia súc tiêu hủy là 40 con. Hiện nay, cả nước có 09 ổ dịch VDNC tại 02 tỉnh Quảng Ngãi và Hà Tĩnh chưa qua 21 ngày.
Thị trường chăn nuôi
Trên thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 5/2023 ở Chicago, Mỹ biến động giảm trong tháng 4/2023 do nguồn cung thịt lợn dồi dào với mức giảm 8 UScent/lb xuống mức 77 UScent/lb.
Tại thị trường trong nước, trong tháng 4/2023, giá lợn hơi trên cả nước tăng.
Tại khu vực miền Bắc, giá lợn hơi tăng 4.000 – 5.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 52.000 – 55.000 đồng/kg. Cụ thể, tỉnh Thái Bình thu mua lợn hơi với giá cao nhất khu vực với 55.000 đồng/kg. Lợn hơi tại tỉnh Hưng Yên được giao dịch ở mức 54.000 đồng/kg. Lợn hơi tại các địa phương bao gồm Bắc Giang, VĩnhPhúc và Hà Nội được thu mua với giá 53.000 đồng/kg. 52.000 đồng/kg là mức giao dịch được ghi nhận ở các địa phương còn lại.
Giá lợn hơi thị trường khu vực miền Trung, Tây Nguyên tăng 4.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 52.000 – 55.000 đồng/kg. Theo đó, lợn hơi tại ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Lâm Đồng đang được giao dịch ở mức 55.000 đồng/kg. Tỉnh Bình Định duy trì thu mua lợn hơi với giá 54.000 đồng/kg. 53.000 đồng/kg là mức giao dịch được ghi nhận tại tỉnh Nghệ An. Các địa phương khác thu mua lợn hơi với giá 52.000 đồng/kg – thấp nhất khu vực.
Tại miền Nam, giá lợn hơi tăng 1.000 – 5.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 51.000 – 55.000 đồng/kg. Trong đó, 53.000 đồng/kg là mức giao dịch được ghi nhận tại TP HCM và Tây Ninh. Tỉnh Sóc Trăng giao dịch lợn hơi ở mức 51.000 đồng/kg – thấp nhất khu vực. Mức giá 55.000 đồng/kg là mức thu mua cao nhất khu vực, được ghi nhận tại các địa phương bao gồm Long An, Đồng Tháp, Bạc Liêu và Bến Tre.
Giá thu mua gà tại trại biến động trái chiều tại các vùng miền trong tháng 4/2023. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Bắc, miền Trung và miền Nam tăng 2.000 đồng/kg lên mức 32.000 – 33.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Nam và miền Trung giảm 5.000 – 6.000 đồng/kg xuống mức 19.000 – 20.000 đồng/kg.
Giá trứng gà miền Bắc ổn định ở mức 1.800 – 2.000 đồng/quả. Giá trứng gà miền Trung giữ mức 1.800 – 2.000 đồng/quả. Giá trứng gà miền Đông Nam Bộ 2.000 – 2.100 đồng/quả, còn ở miền Tây Nam Bộ 1.900 – 2.000 đồng/quả.
Thị trường xuất khẩu
– Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 4 năm 2023 ước đạt 41,2 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 4 tháng đầu năm 2023 đạt 149,1 triệu USD, tăng 39,9% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 41,5 triệu USD, tăng 14,4%; thịt và phụ phẩmdạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 45,3 triệu USD, tăng 63,7%.
– Xuất khẩu thức ăn chăn nuôi: (đang cập nhật)
Thị trường nhập khẩu
– Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 4 năm 2023 ước đạt 305,8 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 4 tháng đầu năm 2023 đạt 1,08 tỷ USD, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 436,6 triệu USD, giảm 3%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 407,5 triệu USD, tăng 1%.
– Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu:
Giá trị nhập khẩu mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 4 năm 2023 ước đạt 420 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 4 tháng đầu năm 2023 đạt 1,58 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 3 tháng đầu năm 2023, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường: Áchentina (chiếm 30,9% thị phần), Ấn Độ (16,8%) và Hoa Kỳ (14,7%). So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ Áchentina tăng 35,5%, Ấn Độ tăng gấp 3,2 lần và Hoa Kỳ tăng 16,7%.
– Đậu tương:
Khối lượng nhập khẩu đậu tương tháng 4 năm 2023 ước đạt 250 nghìn tấn với giá trị ước đạt 165,4 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 4 tháng đầu năm 2023 đạt 748,6 nghìn tấn và 511,9 triệu USD, tăng 3,2% về khối lượng và tăng 6,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.
Hoa Kỳ, Braxin và Canađa là 3 thị trường cung cấp đậu tương chính cho Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2023 với 98,7% thị phần.
– Lúa mì:
Ước nhập khẩu lúa mì tháng 4 năm 2023 đạt 450 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu đạt 167 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 4 tháng đầu năm 2023 đạt 1,66 triệu tấn và 611,7 triệu USD, tăng 7,3% về khối lượng và tăng 6,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 3 tháng đầu năm 2023, nguồn nhập khẩu lúa mì chính của Việt Nam là từ các thị trường: Ôxtrâylia (chiếm tỷ trọng 65,4%), Braxin (21,5%) và Hoa Kỳ (7,1%). So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu lúa mì của Việt Nam từ Ôxtrâylia tăng 14,2%; Braxin tăng 47,3% và Hoa Kỳ giảm 9,9%.
– Ngô:
Khối lượng ngô nhập khẩu tháng 4 năm 2023 ước đạt 600 nghìn tấn với giá trị đạt 203,4 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 4 tháng đầu năm 2023 ước đạt 2,79 triệu tấn và 941,9 triệu USD, tăng 8,5% về khối lượng và tăng 10,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 3 tháng đầu năm 2023, nguồn nhập khẩu ngô của Việt Nam chủ yếu từ 3 thị trường Braxin, Ấn Độ và Áchentina với tổng thị phần chiếm 92,2%. So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu ngô từ Braxin tăng 4,1 lần, Ấn Độ giảm 9,8% và Áchentina giảm 57,4%.
Nguồn: channuoivietnam.com