Tình hình chung
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong tháng 6/2023, nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2003 đạt kết quả tích cực do điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi, các địa phương quan tâm đến việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và đầu tư thâm canh, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất; đàn vật nuôi phát triển tốt do tình hình dịch bệnh được kiểm soát, sản phẩm chănnuôi chủ yếu tăng khá so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên người chăn nuôi còn gặp khó khăn do giá nguyên liệu đầu vào ở mức cao, giá bán các loại sản phẩm không ổn định.
Chăn nuôi lợn trong 6 tháng đầu năm gặp khó khăn do giá nguyên liệu đầu vào ở mức cao tăng, giá bán các loại sản phẩm không ổn định, lợi nhuận của người chăn nuôi bị giảm mạnh. Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 6 tăng khoảng 2,5% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 2.325,6 nghìn tấn, tăng 6,5%; tổng số gia cầm tăng khoảng 0,9%; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 1041,8 nghìn tấn, tăng 4,8%; sản lượng trứng gia cầm ước đạt 9,1 tỷ quả, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 6 tháng đầu năm, chăn nuôi lợn nói riêng và gia súc, gia cầm nói chung hiện gặp nhiều khó khăn do giá nguyên liệu đầu vào (thức ăn chăn nuôi, các chi phí khác…) đã tăng trong thời gian dài và hiện đang ở mức cao nhưng giá xuất bán sản phẩm đầu ra không ổn định, lợi nhuận của người chăn nuôi bị giảm.
Chăn nuôi trâu, bò:
Tình hình chăn nuôi trâu, bò trên cả nước trong 6 tháng đầu năm 2023 diễn ra ổn định do không xảy ra nhiều các đợt rét đậm rét hại và các địa phương kiểm soát tốt dịch bệnh. Theo Tổng cục Thống kê, ước tính tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 6 năm 2023 giảm khoảng 1,7%; tổng số bò tăng khoảng 0,9% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 61,2 nghìn tấn, giảm 0,9%; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 245,3 nghìn tấn, tăng 2,6%; sản lượng sữa bò tươi 6 tháng đầu năm ước đạt 662,8 nghìn tấn, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2022.
Tính đến cuối tháng 6/2023, số lượng trâu của cả nước giảm khoảng 1,7% so cùng kỳ năm 2022. Ảnh: ST
Chăn nuôi lợn:
Trong quý I, giá bán thịt lợn hơi vẫn ở mức thấp, người chăn nuôi gặp nhiều khó khăn, nhưng đến quý II, giá thịt lợn hơi đã tăng khá. Tuy nhiên, do giá nguyên liệu đầu vào (thức ăn chăn nuôi, các chi phí khác…) đã tăng trong thời gian dài và hiện ở mức cao nhưng giá xuất bán sản phẩm đầu ra không ổn định, lợi nhuận của người chăn nuôi bị giảm mạnh, nên nhiều hộ chăn nuôi nhỏ lẻ không thể bù lỗ nên đã phải dừng nuôi. Tuy nhiên, khu vực doanh nghiệp và chuỗi liên kết sản xuất lại có xu hướng mở rộng sản xuất khi giá sản phẩm đầu ra tăng. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 6 năm 2023 tăng khoảng 2,5% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 2325,6 nghìn tấn, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Chăn nuôi gia cầm:
Nhìn chung trong 6 tháng đầu năm, đàn gia cầm trên cả nước phát triển ổn định, chăn nuôi gia cầm của khu vực doanh nghiệp phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát, chỉ phát sinh một số ổ dịch nhỏ lẻ. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 6 năm 2023 tăng khoảng 0,9% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước đạt 1041,8 nghìn tấn, tăng 4,8%; sản lượng trứng gia cầm 6 tháng đầu năm ước đạt 9,1 tỷ quả, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 6 năm 2023 ước đạt 44 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2023 đạt 232 triệu USD, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 65 triệu USD, tăng 9,9%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 68 triệu USD, tăng 38,7%.
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2023 ước đạt 303 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2023 đạt 1,67 tỷ USD, giảm 9,7% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa ước đạt 618 triệu USD, giảm 12,3%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 626 triệu USD, giảm 3,8%.
Thú y:
Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến ngày 22/6/2023, tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cả nước cụ thể như sau:
– Dịch Cúm gia cầm (CGC): Trong tháng 6/2023, không phát sinh ổ dịch CGC. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 11 ổ dịch CGC A/H5N1 tại 07 tỉnh, thành phố: Cao Bằng, Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Nam và Quảng Ngãi; số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 13.789 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 47,61%, số gia cầm phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 76,42%. Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch CGC A/H5N1 tại tỉnh Quảng Ngãi chưa qua 21 ngày.
– Dịch Lở mồm long móng (LMLM): Trong tháng 6/2023, không xảy ra ổ dịch LMLM. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 19 ổ dịch tại 09 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 618 con, số gia súc tiêu hủy là 21 con. Hiện nay, cả nước không có dịch bệnh LMLM.
– Dịch Tai xanh: Trong tháng 6/2023, cả nước phát sinh ổ dịch Tai xanh. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 01 ổ dịch tại tỉnh Cao bằng; số lợn mắc bệnh là 57 con, số lợn chết và tiêu hủy là 37 con. Hiện nay, cả nước không có dịch bệnh Tai Xanh.
– Dịch Tả lợn châu Phi: Trong tháng 6/2023, cả nước phát sinh 22 ổ dịch tại 06 tỉnh. Tổng số lợn bị tiêu hủy là 409 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 172 ổ dịch tại 34 tỉnh; tổng số lợn bị tiêu hủy là 6.277 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 79,64%; số lợn phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 85,47%. Hiện nay, cả nước có 39 ổ dịch thuộc 16 huyện của 11 tỉnh chưa qua 21 ngày.
– Bệnh viêm da nổi cục (VDNC): Trong tháng 6/2023, cả nước phát sinh 03 ổ dịch tại 03 tỉnh Quảng Bình, Quảng Ngãi và Thái Nguyên. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 61 ổ dịch tại 09 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 346 con, số gia súc tiêu hủy là 76 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 70,67%; số lợn bị phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 81,64%. Hiện nay, cả nước có 02 ổ dịch tại 02 tỉnh Thái Nguyên và Quảng Ngãi chưa qua 21 ngày.
Thị trường chăn nuôi
Trên thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 7/2023 ở Chicago, Mỹ biến động tăng với mức tăng 12,325 UScent/lb lên mức 91,85 UScent/lb.
Tại thị trường trong nước, trong tháng 6/2023, giá lợn hơi trên cả nước tăng. Tại khu vực miền Bắc, giá lợn hơi tăng 2.000 – 4.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 60.000 – 63.000 đồng/kg. Theo đó, 63.000 đồng/kg là mức giao dịch cao nhất khu vực, được ghi nhận tại các địa phương bao gồm Bắc Giang, Hưng Yên, Phú Thọ và Thái Bình. Các tỉnh, thành còn lại duy trì thu mua với giá trong khoảng 60.000 – 62.000 đồng/kg.
Giá lợn hơi thị trường khu vực miền Trung, Tây Nguyên tăng 2.000 – 4.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 58.000 – 62.000 đồng/kg. Cụ thể, hai tỉnh Quảng Bình và Ninh Thuận cùng thu mua lợn hơi với giá 59.000 đồng/kg – ngang với Hà Tĩnh và Bình Định. Tỉnh Thanh Hóa thu mua lợn hơi với giá 62.000 đồng/kg. Thương lái tại tỉnh Nghệ An giao dịch với mức 61.000 đồng/kg.
Tại miền Nam, giá lợn hơi tăng 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 58.000 – 60.000 đồng/kg. Trong đó, 58.000 đồng/kg là mức giao dịch được ghi nhận tại Đồng Tháp, Cần Thơ, Tiền Giang và Bạc Liêu. Các địa phương còn lại duy trì thu mua lợn hơi với giá trong khoảng 59.000 – 60.000 đồng/kg.
Giá thu mua gà tại trại biến động tăng tại các vùng miền trong tháng 6/2023. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Bắc tăng 3.000 đồng/kg lên mức 48.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Trung tăng 1.000 đồng/kg lên mức 47.000 đồng/kg Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Nam tăng 1.000 đồng/kg lên mức 38.000 -39.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Nam và miền Trung tăng 5.000 – 6.000 đồng/kg lên mức 34.000 đồng/kg.
Giá trứng gà miền Bắc tăng 100 đồng/quả lên mức 1.700 – 1.900 đồng/quả. Giá trứng gà miền Trung tăng 150 đồng/quả lên mức 1.900 – 2.000 đồng/quả. Giá trứng gà miền Đông Nam Bộ và miền Tây Nam Bộ tăng 50 – 100 đồng/quả lên 1.900 – 2.100 đồng/quả.
Thị trường xuất khẩu
Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 6 năm 2023 ước đạt 44 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2023 đạt 232 triệu USD, tăng 26,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 65 triệu USD, tăng 9,9%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 68 triệu USD, tăng 38,7%.
Xuất khẩu thức ăn chăn nuôi: (đang cập nhật)
Thị trường nhập khẩu
Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2023 ước đạt 303 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2023 đạt 1,67 tỷ USD, giảm 9,7% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa ước đạt 618 triệu USD, giảm 12,3%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 626 triệu USD, giảm 3,8%.
Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu:
Giá trị nhập khẩu mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 6 năm 2023 ước đạt 560 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 6 tháng đầu năm 2023 đạt 2,49 tỷ USD, giảm 6,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 5 tháng đầu năm 2023, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường: Áchentina (chiếm 24,8% thị phần), Ấn Độ (17,4%) và Hoa Kỳ (14,5%). So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ Áchentina giảm 12,8%, trong khi giá trị nhập khẩu từ Ấn Độ tăng gấp 2,3 lầnvà nhập khẩu từ Hoa Kỳ tăng nhẹ 1%.
Nhập khẩu đậu tương:
Khối lượng nhập khẩu đậu tương tháng 6 năm 2023 ước đạt 430 nghìn tấn với giá trị ước đạt 248 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 6 tháng đầu năm 2023 đạt 1,31 triệu tấn và 836 triệu USD, giảm 26,8% về khối lượng và giảm 18,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.
Giá đậu tương nhập khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 639 USD/tấn, giảm 6,4% so với cùng kỳ năm 2022.
Hoa Kỳ, Braxin và Canađa là 3 thị trường cung cấp đậu tương chính cho Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2023 với tổng thị phần là 96%. So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu đậu tương của Việt Nam từ thị trường Hoa Kỳ tăng 39,5%; Canađa tăng 25,1%. Ngược lại, nhập khẩu đậu tương từ thị trường Braxin giảm 39,4%.
Nhập khẩu lúa mì:
Ước nhập khẩu lúa mì tháng 6 năm 2023 đạt 750 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu đạt 251 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 6 tháng đầu năm 2023 đạt 2,78 triệu tấn và 1 tỷ USD, tăng 23,8% về khối lượng và tăng 20,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.
Giá lúa mì nhập khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 361 USD/tấn, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 5 tháng đầu năm 2023, nguồn nhập khẩu lúa mì chính của Việt Nam là từ các thị trường: Ôxtrâylia (chiếm tỷ trọng 67%), Braxin (12,7%), Canađa (8,6%), và Hoa Kỳ (8,1%). So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu lúa mì của Việt Nam từ Ôxtrâylia tăng 9,1%; Canađa tăng 31,8 lần; Hoa Kỳ tăng 27,6%, trong khi nhập khẩu từ Braxin giảm 14,9%.
Nhập khẩu ngô:
Khối lượng ngô nhập khẩu tháng 6 năm 2023 ước đạt 500 nghìn tấn với giá trị đạt 161 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 3,71 triệu tấn và 1,24 tỷ USD, giảm 18,5% về khối lượng và giảm 22,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.
Giá ngô nhập khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 335 USD/tấn, giảm 5,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 5 tháng đầu năm 2023, nguồn nhập khẩu ngô của Việt Nam chủ yếutừ 3 thị trường Braxin, Áchentina và Ấn Độ với tổng thị phần chiếm 91,8%. So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu ngô từ Braxin tăng 4,4 lần, Ấn Độ tăng 11,6%, trong khi nhập khẩu từ Áchentina giảm 54,7%.
Nguồn: channuoivietnam.com