Tụ huyết trùng là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở heo, nhất là thể cấp tính. Bệnh gây thiệt hại lớn trên khắp trên thế giới với mọi thời tiết và mọi điều kiện chăn nuôi nếu không phát hiện và xử lý bệnh kịp thời.
Tác nhân
Vi khuẩn tụ huyết trùng thường nằm trong các con heo khỏe mạnh, thường nằm ở các khu vực như: Niêm mạc đường hô hấp… Các yếu tố bất lợi do thời tiết thay đổi đột ngột, chuyển đàn, chế độ dinh dưỡng không phù hợp… khiến vi khuẩn gây bệnh tụ huyết trùng ở heo phát triển nhanh hơn, gây ra yếu tố stress cho heo và sức đề kháng từ đó cũng giảm đi.
Triệu chứng
Ở thể cấp tính, heo phát bệnh nhanh, gồm nhiều triệu chứng: Heo thường có biểu hiện sốt cao trên hoặc bằng 410C, nằm li bì, khó thở, thở dốc, ngồi thở giống chó… dễ nhận biết hơn đó là kém ăn hoặc bỏ ăn hoàn toàn. Vùng hầu và vùng mặt có biểu hiện sưng phù, tai và vùng bụng xuất hiện nhiều dấu vết tím đỏ, niêm mạc mắt sẽ bị tím tái và sẽ bị chảy nước mũi (lúc đầu nước mũi có màu đục và sau đó có kèm thêm máu).
Bệnh tụ huyết trùng ở heo thể cấp tính tiến triển rất nhanh từ 1 – 2 ngày. Heo chết rất nhanh, tỷ lệ chết cao. Nếu không chết có thể chuyển sang thể mãn tính của tụ huyết trùng.
Ðịnh kỳ phải tẩy uế, khử trùng chuồng nuôi sạch sẽ để tiêu diệt vi khuẩn, mầm bệnh. Ảnh: Apanano
Lưu ý: Bệnh tụ huyết trùng không xuất hiện đơn lẻ mà thường là kế phát của một số bệnh do virus như: Bệnh tai xanh, bệnh Circo, bệnh suyễn… hoặc có thể xảy ra cùng lúc với bệnh đóng dấu, bệnh dịch tả cổ điển hoặc dịch tả heo châu Phi. Do vậy việc chẩn đoán sẽ gặp khó khăn, rất dễ nhầm lẫn.
Bệnh tích
– Xoang ngực, xoang bao tim và xoang phúc mạc tích nhiều nước.
– Phổi viêm nặng, màu đỏ sẫm do tụ huyết và xuất huyết. Phổi bị xơ hóa có nhiều điểm hoại tử, màng phổi viêm dính vào lồng ngực.
– Các hạch ở hầu họng và hạch màng treo ruột sưng to và tụ huyết.
– Tụ huyết, xuất huyết ở nhiều cơ quan bên trong.
– Thận ứ máu đỏ sẫm, mổ ra có máu cục, lá lách sưng to, tụ huyết.
Phác đồ điều trị
Chẩn đoán đúng, dùng thuốc càng sớm càng tốt khi cơ thể con vật đang khỏe mạnh và vi khuẩn chưa phát triển nhiều, chưa gây tác hại nhiều. Sử dụng các loại kháng sinh có tác dụng với vi khuẩn Gram (-) đều cho hiệu quả cao. Khi trị bệnh tụ huyết trùng ở heo nên theo sát phác đồ điều trị, kết hợp với theo dõi tình trạng heo bệnh cũng như phòng bệnh cho đàn để ngăn sự lây lan của tụ huyết trùng trong trại. Có thể dùng một số thuốc như: Streptomycin, Kanamycin, Ampikana, Oxytetracyclin… liều theo hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất. Kết hợp bổ sung vitamin, thuốc trợ sức, trợ lực cho heo.
Phòng bệnh
Vệ sinh phòng bệnh: Chuồng nuôi phù hợp với từng loại heo và độ tuổi khác nhau, có tường bao, rào chắn. Chuồng trại luôn thông thoáng, đủ ánh sáng, mát về mùa hè, ấm về mùa đông. Thường xuyên quét dọn, định kỳ tẩy uế, khử trùng chuồng nuôi, cọ rửa và tiêu độc máng ăn, máng uống và các dụng cụ chăn nuôi, quần áo bảo hộ… Sau mỗi đợt nuôi, phải vệ sinh chuồng trại và khử trùng tiêu độc, sau đó để trống chuồng. Heo mới mua về phải nuôi cách ly ở khu vực riêng 15 – 20 ngày trước khi nhập đàn. Phân, rác và chất thải trong chuồng cần được thu gom thường xuyên, đưa ra chỗ tập trung riêng để giữ chuồng luôn sạch sẽ. Hạn chế phương tiện, người và vật lạ vào khu vực chăn nuôi.
Khử trùng tiêu độc: Sử dụng ánh nắng mặt trời để phơi máng ăn, máng uống, dụng cụ chăn nuôi. Quét nước vôi pha loãng nồng độ 10% (1 kg vôi/10 lít nước) trong chuồng nuôi, môi trường xung quanh. Dùng một số hóa chất sát trùng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Phòng bệnh bằng vaccine: Ðây là biện pháp chủ động, tích cực và có hiệu quả nhất, 1 năm tiêm 2 – 3 lần tùy theo mục đích chăn nuôi và dịch tễ từng vùng. Lần 1 tiêm khi heo 45 – 50 ngày tuổi, sau đó tiêm nhắc lại cứ 6 tháng 1 lần. Những nơi thường xuyên có dịch xảy ra, cần tiêm vaccine nhắc lại 2 lần sau lần 1 khoảng 3 – 4 tuần, sau đó tiêm nhắc lại cứ 6 tháng/lần.
Ðể phòng bệnh tụ huyết trùng hiệu quả cần phối hợp an toàn sinh học, lịch trình vaccine điều trị phòng bệnh và nhận biết các yếu tố nguy cơ như là stress, thay đổi môi trường, khẩu phần ăn. Cộng với theo dõi các dấu hiệu để xử lý cũng như điều trị kịp thời trước khi bệnh lây lan.
Phương Đông