Định hình hệ sinh thái Halal Việt Nam: Hướng mở vào thị trường nghìn tỷ USD

(Người Chăn Nuôi) – Sáng 10/11 tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao sơ kết giữa kỳ Đề án phát triển ngành Halal đến năm 2030. Nhiều kết quả tích cực được ghi nhận, từ hoàn thiện tiêu chuẩn đến mở rộng xuất khẩu và du lịch Halal, từng bước khẳng định tiềm năng của Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Hằng nhấn mạnh phát triển ngành công nghiệp Halal là một chủ trương quan trọng của Việt Nam trong tiến trình đa dạng hóa thị trường, mở rộng quan hệ đối tác và thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới. 

Theo Thứ trưởng, Halal không chỉ là câu chuyện tiêu chuẩn tôn giáo mà đã trở thành một chuẩn mực thương mại quan trọng với quy mô thị trường toàn cầu lên đến hàng nghìn tỷ USD. Việt Nam có nhiều lợi thế để tham gia sâu hơn vào lĩnh vực này, từ nguồn nguyên liệu nông nghiệp dồi dào, công nghệ chế biến phát triển, đến thế mạnh trong dệt may và du lịch. 

Đề án phát triển ngành Halal

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm. Ảnh: Thành Long

Các báo cáo và tham luận tại Hội nghị cho thấy sau gần 3 năm triển khai Đề án, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả tích cực. Trước hết, nhận thức về Halal đã thay đổi rõ rệt trong cả cơ quan quản lý và cộng đồng doanh nghiệp. Nếu như trước đây, Halal thường được hiểu đơn thuần là tiêu chuẩn phục vụ người theo đạo Hồi, thì nay đã được nhìn nhận như một phân khúc thị trường lớn, giàu tiềm năng và đòi hỏi quy trình kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt. 

Cùng với đó, nhiều chương trình hợp tác quốc tế đã được mở rộng, các thỏa thuận giữa Việt Nam và cơ quan chứng nhận Halal của các nước Hồi giáo tiếp tục được ký kết, giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường thuận lợi hơn.

Một bước tiến quan trọng là hệ thống tiêu chuẩn và chứng nhận trong nước dần được hoàn thiện. Sáu tiêu chuẩn quốc gia về Halal trong lĩnh vực thực phẩm, du lịch, nhà hàng… đã được ban hành; đồng thời Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ chính thức đi vào hoạt động, đánh dấu bước chủ động của Việt Nam trong việc tham gia sâu vào chuỗi giá trị Halal toàn cầu. Việc có tổ chức chứng nhận trong nước giúp doanh nghiệp rút ngắn quy trình, giảm chi phí, tăng khả năng tiếp cận thị trường và từng bước xây dựng thương hiệu Halal Việt Nam.

Cùng với nỗ lực ở cấp Trung ương, nhiều địa phương đã chủ động coi Halal là một hướng phát triển kinh tế mới, đặc biệt tại những nơi có thế mạnh về nông nghiệp và chế biến thực phẩm. Một số địa phương đặt mục tiêu xây dựng thương hiệu “Halal Việt Nam – Halal Vĩnh Long”, hướng tới hình thành chuỗi cung ứng đạt chuẩn, không chỉ phục vụ xuất khẩu mà còn đón du khách Hồi giáo đến tham quan và trải nghiệm dịch vụ.

Tại Việt Nam, các doanh nghiệp đã nhanh chóng đạt được chứng nhận Halal để thuận lợi trong việc tiêu thụ thực phẩm tại thị trường Halal. Điển hình tại Công ty CPV Bình Phước, một trong những doanh nghiệp năng động trong việc xuất khẩu gia cầm, chỉ tính riêng trong năm 2023, doanh số xuất khẩu của nhà máy đã tăng hơn 3 lần so với năm 2021 và xuất khẩu đi các thị trường gồm Nhật, Hồng Kông (Trung Quốc), Lào, Campuchia…

Trong đó, các trang trại CPV Food Bình Phước được kiểm tra và giám sát chặt chẽ giữa cơ quan thú y nhà nước và cùng với sự kiểm tra chặt chẽ của công ty. Mỗi lô gà khi xuất trại đều được lấy mẫu ngẫu nhiên đảm bảo các chỉ tiêu cúm gia cầm, NDV, AI, Antibio, pesticide đạt theo yêu cầu tiêu chuẩn của chính phủ và các nước xuất khẩu để sản xuất và chế biến thành phẩm an toàn cho người tiêu dùng sử dụng. Sau 4 năm hoạt động, nhà máy đạt được các chứng nhận như sau ISO 9001, ISO 22000, GFSI như BRC và FSSC. Hiện Công ty CPV Food Bình Phước cũng là một trong số doanh nghiệp trong ngành chăn nuôi đạt chứng nhận chuẩn Halal quốc tế.

Dù đạt được nhiều kết quả tích cực, các đại biểu cũng thẳng thắn nhìn nhận ngành Halal Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu với không ít thách thức. Trong số đó, khó khăn lớn nhất là chi phí chứng nhận Halal còn cao so với sức của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hệ thống tiêu chuẩn Halal trên thế giới cũng chưa thống nhất, mỗi quốc gia hoặc khu vực có bộ tiêu chuẩn riêng, khiến doanh nghiệp phải xin chứng nhận từ nhiều cơ quan khác nhau nếu muốn mở rộng thị trường. 

Bên cạnh đó, nguồn nhân lực am hiểu sâu về quy trình Halal còn hạn chế, nhất là trong các khâu giám sát, tư vấn và quản lý dây chuyền sản xuất. Nhiều doanh nghiệp cũng cho rằng việc đầu tư dây chuyền tách biệt, kiểm soát nguyên liệu và tuân thủ quy trình Halal đòi hỏi vốn lớn và thời gian dài, nên vẫn còn tâm lý e ngại.

Từ thực tế đó, các đại biểu đề xuất nhiều nhóm giải pháp trọng tâm cho giai đoạn tới, trước hết là tăng cường phổ biến thông tin và nâng cao nhận thức xã hội về Halal như một thị trường giàu tiềm năng, chứ không chỉ là yêu cầu tôn giáo. Cần sớm hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn thống nhất trên toàn quốc, hỗ trợ chi phí chứng nhận, hỗ trợ tín dụng và đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu. 

Kết luận Hội nghị, bà Nguyễn Phương Trà, Vụ trưởng Vụ Trung Đông – châu Phi, Bộ Ngoại giao, khẳng định phát triển ngành Halal là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm thực hiện hiệu quả đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam. Bà nhấn mạnh yêu cầu đẩy mạnh kết nối với các nước Hồi giáo, tăng cường hợp tác quốc tế, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường, góp phần đưa sản phẩm Halal Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thùy Khánh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *