Phòng ngừa hội chứng giảm đẻ trên gà

(Người Chăn Nuôi) – Hội chứng giảm đẻ do virus gây ra là bệnh truyền nhiễm trên gà. Bệnh không gây chết nhưng làm giảm năng suất đẻ trứng và tổn hại buồng trứng của gà vĩnh viễn.

Nguyên nhân

Hội chứng giảm đẻ (Egg Drop Syndrome – EDS) do virus thuộc nhóm Adenovirus gây bệnh ở gà. 

Virus EDS tương đối bền với Chloroform, chịu được độ pH từ 3 – 10. Với nhiệt độ, virus bất hoạt sau 30 phút ở 600C, 3 giờ ở 560C. Tính gây bệnh của virus sẽ mất đi sau khi xử lý với Formaldehyde 0,5% và Glutaraldehyde 0,5%.

hội chứng giảm đẻ

Đặc điểm dịch tễ

Đường truyền lây: Bệnh lây truyền theo 2 con đường:

  • Lây truyền dọc: Bệnh lây từ đàn bố mẹ sang đàn con thông qua trứng bị nhiễm mầm bệnh. Tuy số lượng trứng bị ảnh hưởng không nhiều nhưng đây là đường truyền lây nguy hiểm. Trong nhiều trường hợp, gà bị nhiễm virus từ trứng không bài thải virus cũng như không sản sinh kháng thể. Chỉ đến khi tỷ lệ đẻ trong đàn đạt trên 50%, giai đoạn virus bị tái kích hoạt, con vật bài thải virus làm bệnh lây lan nhanh trong đàn.
  • Lây truyền ngang: Bệnh lây từ gà bệnh sang gà khỏe qua thức ăn, nước uống, dụng cụ chăn nuôi, các chất thải từ gà bị nhiễm bệnh. Do vậy, sự lan truyền mầm bệnh giữa các gà trong kiểu nuôi chuồng lồng khá chậm vì được nuôi tách biệt. Núm uống, máng ăn, ô chuồng tương đối tách biệt. Mầm bệnh sẽ lây lan nhanh hơn đối với gà nuôi kiểu sàn.

Loài mắc bệnh: Virus có thể gây bệnh cho tất cả các loại gia cầm, thủy cầm. Bệnh xuất hiện ở mọi lứa tuổi từ gà con đến gà trưởng thành. Tuy nhiên, bệnh thường xảy ra ở gà đẻ công nghiệp (thương phẩm) và gà đẻ trứng giống trong giai đoạn từ 26 – 35 tuần tuổi, thời gian đẻ đỉnh của gia cầm.

Cơ chế sinh bệnh: Virus vào cơ thể gây nhiễm trùng huyết và nhân lên tại các mô lympho trên khắp cơ thể. Trong đó, vòi trứng và ống dẫn trứng cũng bị ảnh hưởng dẫn đến bị viêm nên quá trình hình thành vỏ trứng diễn ra không bình thường. Thời gian ủ bệnh từ 7 – 9 ngày có một số trường hợp gây bệnh sau 17 ngày bị nhiễm.

Triệu chứng

Đặc trưng của bệnh là gà đang đẻ bình thường tự nhiên giảm đẻ đột ngột 20 – 40% và kéo dài liên tục. Gà bị bệnh vẫn ăn uống bình thường hoặc giảm ăn. Một số trường hợp gà có hiện tượng tiêu chảy nhất thời, mào nhợt nhạt (chiếm khoảng 10 – 70%). Hình dạng trứng ngắn lại, vỏ mỏng, sần sùi và chuyển từ màu nâu sang màu trắng, có khi không có vỏ, lòng trắng loãng. Số lượng trứng sản xuất ra không ảnh hưởng nhưng số lượng trứng sử dụng được giảm từ 10 – 40%.

Bệnh tích

Bệnh tích biểu hiện chủ yếu ở buồng trứng và ống dẫn trứng, các bệnh tích khác không rõ ràng. Điều này khiến cho việc lựa chọn gà bị bệnh rất khó khăn.

Ống dẫn trứng bị phù thũng sau, đặc biệt tại miệng phễu ở phần trên của ống dẫn trứng và phần tử cung.

Lách bị sưng to, tế bào trứng mềm nhũn, quan sát thấy nhiều giai đoạn phát triển của trứng trong xoang bụng.

Chẩn đoán

Chẩn đoán lâm sàng: Hội chứng giảm đẻ ở gà có thể được chẩn đoán dựa vào hiện tượng giảm sản lượng trứng không đạt được như đã dự báo hoặc sản lượng trứng đột nhiên giảm, đặc biệt khi gà đang khỏe mạnh nhưng vỏ trứng bị thay đổi hoặc sức khỏe đàn gà giảm sút cùng với chất lượng vỏ trứng. Tuy nhiên, các triệu chứng lâm sàng của bệnh rất dễ nhầm lẫn với bệnh khác.

Bên cạnh đó khi có biểu hiện triệu chứng, bệnh đã gây ảnh hưởng đến năng suất đàn gà đẻ, ảnh hưởng đến kinh tế người nuôi. Cần tiến hành giám sát mầm bệnh lưu hành trong đàn trước giai đoạn gà đẻ trứng, từ đó có những biện pháp kịp thời điều trị bệnh.

Chẩn đoán phòng thí nghiệm: Có nhiều phương pháp chẩn đoán, giám sát bệnh như: phản ứng HI, ELISA, iiPCR. Trong đó, kỹ thuật iiPCR đang được nhiều cơ sở thú y, trang trại lớn nhỏ lựa chọn.

Điều trị 

Hiện nay chưa có thuốc điều trị  hội chứng giảm đẻ ở gà.

Khi gà bị bệnh, cần bổ sung thuốc bổ, vitamin, tăng hàm lượng canxi và protein trong khẩu phần cho gà đẻ, gà giống để tăng năng suất đẻ và tăng chất lượng trứng.

Phòng bệnh

Người chăn nuôi cần thực hiện tốt các biện pháp phòng để giảm thiểu khả năng mắc bệnh của đàn gà.

Tiêm vaccine là biện pháp phòng bệnh giảm đẻ ở gà hiệu quả nhất. Vaccine bất hoạt được sử dụng để tiêm cho gà nuôi trước khi vào giai đoạn bắt đầu đẻ trứng, giai đoạn 15 – 16 tuần tuổi bằng các loại vaccine theo khuyến cáo của nhà sản xuất.

Chọn gà giống từ những cơ sở uy tín, chất lượng. Gà con phải được chọn từ những đàn gà được tiêm phòng cẩn thận.

Đảm bảo vệ sinh phòng bệnh trong quá trình chăn nuôi, vận chuyển trứng, quá trình tiêm phòng. Thường xuyên vệ sinh chuồng trại, máng ăn, máng uống sạch sẽ. Định kỳ 2 lần/tuần phun sát trùng để tiêu diệt mầm bệnh trong và ngoài trang trại, ngâm khay đựng trứng vào chất sát trùng sau đó phơi khô trước khi đưa vào sử dụng. Khu nuôi gà phải xa khu nuôi vịt, ngỗng vì virus có nguồn gốc từ vịt và ngỗng.

Nếu đàn gà bệnh và gà không bị bệnh được nuôi chung, cần tiến hành tách riêng trong quá trình chăn nuôi, ấp nở. Nếu có điều kiện nên sử dụng các máy ấp riêng, hoặc nếu không phải sử dụng các khay ấp nở riêng.

Cung cấp thức ăn và nước uống đầy đủ. Thường xuyên bổ sung các loại tăng đề kháng, bổ sung khoáng, vitamin, canxi giúp tăng sức kháng bệnh, chống stress khi môi trường thay đổi, tăng khả năng hấp thu khoáng, kích thích buồng trứng phát triển, tăng chu kỳ đẻ và giai đoạn gà đẻ đỉnh cao.

Thường xuyên theo dõi sản lượng và chất lượng trứng gà cũng như sức khỏe gà nuôi để phát hiện sớm dấu hiệu bệnh. Khi phát hiện các dấu hiệu bệnh lý thì người nuôi cần liên hệ bác sĩ thú y để được hỗ trợ kịp thời.

➢ Virus gây bệnh EDS tồn tại lâu trong môi trường và dễ lây lan với nhiều đường như nước, thức ăn, phân gà, dụng cụ chăn nuôi. Do đó, công tác kiểm soát bệnh gặp nhiều khó khăn hơn cho người nuôi và nếu không có biện pháp xử lý kịp thời, từ đó khiến bệnh lây lan rộng, gây thiệt hại lớn.

Nguyễn Hằng

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *