(Người Chăn Nuôi) – Bộ Công Thương nhận định, quý III/2024, thị trường thịt trong nước không có biến động lớn, nguồn cung đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng. Chăn nuôi heo vẫn tăng trưởng, tuy nhiên tháng 9/2024, hậu quả từ bão số 3 tại miền Bắc và dịch tả heo châu Phi khiến nhiều chuồng trại bị hư hỏng, khiến lứa heo chuẩn bị cho Tết bị thiệt hại.
Giá heo biến động nhẹ
Theo số liệu tổng hợp từ Bộ Công Thương, trong tháng 10/2024, giá heo hơi ở các tỉnh, thành phố dao động trong khoảng 61.000 – 69.000 đồng/kg.
Cụ thể, giá heo hơi tại khu vực miền Bắc dao động trong khoảng 63.000 – 69.000 đồng/kg, những ngày đầu tháng 10 giá tăng từ 1.000 – 2.000 đồng/kg, đến giữa tháng ổn định, sau đó giá giảm 1.000 – 6.000 đồng/kg, rồi tăng 6.000 đồng/kg, nhưng đến gần cuối tháng lại giảm 6.000 – 7.000 đồng/kg so với cuối tháng trước.
Tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên, giá heo hơi dao động trong khoảng 61.000 – 68.000 đồng/kg, những ngày đầu tháng giá heo hơi tăng 3.000 đồng/kg, đến giữa tháng ổn định, sau đó giá giảm 1.000 – 3.000 đồng/kg, rồi tăng 4.000 đồng/kg và đến gần cuối tháng giảm 7.000 đồng/kg so với cuối tháng trước.
Tại khu vực miền Nam, giá heo hơi dao động trong khoảng 62.000 – 66.000 đồng/kg, những ngày đầu tháng giá heo hơi tăng từ 1.000 – 2.000 đồng/kg, rồi ổn định và đến gần cuối tháng giảm 5.000 đồng/kg so với cuối tháng trước.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu thịt và sản phẩm từ thịt của Việt Nam. (Tỷ trọng % tính theo kim ngạch). Nguồn: Tổng cục Hải quan
Xuất khẩu giảm, chờ sức bật mới
Thống kê sơ bộ từ số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong quý III/2024, Việt Nam xuất khẩu được 5.300 tấn thịt và sản phẩm thịt, trị giá 24,85 triệu USD, giảm 14,4% về lượng và giảm 4,2% về trị giá so với quý II/2024; so với quý III/2023 cũng giảm 8,4% về lượng và giảm 12,4% về trị giá.
Thịt và sản phẩm thịt của Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường thuộc khu vực châu Á, trong đó xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Hồng Kông, chiếm 46,57% về lượng và chiếm 62,52% về trị giá trong tổng xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt của cả nước, đạt 2.460 tấn, trị giá 15,54 triệu USD, giảm 4,1% về lượng, nhưng tăng 6,1% về trị giá so với quý II/2024; so với quý III/2023 tăng 5,4% về lượng và tăng 9,8% về trị giá.
Cũng trong quý III/2024, các chủng loại thịt và các sản phẩm từ thịt xuất khẩu chủ yếu gồm: Thịt heo tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh (chủ yếu là thịt heo sữa nguyên con đông lạnh và thịt heo nguyên con đông lạnh) được xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Hồng Kông; Thịt khác và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau giết mổ của động vật khác, tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh (chủ yếu là thịt ếch đông lạnh) được xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường như Bỉ, Hoa Kỳ, Pháp, Canada…; Thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của gia cầm tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh (chủ yếu là chân gà đông lạnh) được xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Hồng Kông, Trung Quốc, Lào…
Cơ cấu thị trường cung cấp thịt và sản phẩm từ thịt cho Việt Nam. (Tỷ trọng % tính theo lượng). Nguồn: Tổng cục Hải quan
Thời gian qua, các chủng loại thịt và các sản phẩm từ thịt đã xuất khẩu tới 35 thị trường, trong đó nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Hồng Kông, Bỉ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp… Thời gian tới, dự báo xuất khẩu thịt và sản phẩm thịt của Việt Nam sẽ tăng trưởng hơn, trong đó, các mặt hàng xuất khẩu chính chủ yếu vẫn là thịt heo sữa đông lạnh, thịt heo đông lạnh, chân gà đông lạnh, thịt ếch đông lạnh…
Nhập khẩu tăng về lượng
Theo Tổng cục Hải quan Việt Nam, quý III/2024, Việt Nam nhập khẩu 221.160 tấn thịt và sản phẩm từ thịt, trị giá 473,31 triệu USD, tăng 2,5% về lượng và tăng 14,7% về trị giá so với quý II/2024; So với quý III/2023 tăng 4,2% về lượng, nhưng giảm 0,8% về trị giá.
Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nga, Ba Lan, Úc, Hàn Quốc và Brazil là những thị trường lớn nhất cung cấp thịt và sản phẩm từ thịt cho Việt Nam. Lượng nhập khẩu từ Ấn Độ, Úc, Hàn Quốc, Hoa Kỳ tăng (trong đó tăng mạnh nhất là nhập khẩu từ thị trường Úc với mức tăng 38,3% so với quý II/2024), còn các thị trường khác giảm. So với quý III/2023, lượng nhập khẩu từ Hoa Kỳ và Ba Lan tăng mạnh, còn các thị trường khác giảm.
Trong quý III/2024, thịt và các sản phẩm từ thịt nhập khẩu chủ yếu là các chủng loại như: Thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của gia cầm; Thịt trâu tươi đông lạnh; Phụ phẩm ăn được sau giết mổ của heo, trâu, bò sống; Thịt heo tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh; Thịt bò tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh… Trong đó, lượng nhập khẩu thịt bò tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh; thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của gia cầm; phụ phẩm ăn được sau giết mổ của heo, trâu, bò tăng so với cùng kỳ năm 2023; trong khi nhập khẩu thịt trâu tươi đông lạnh, thịt heo tươi ướp lạnh hoặc đông lạnh giảm so với cùng kỳ năm 2023.
Cơ cấu thị trường cung cấp thịt heo tươi, ướp lạnh hoặc đông lạnh (HS 0203) cho Việt Nam. (Tỷ trọng % tính theo lượng). Nguồn: Tổng cục Hải quan
Trong quý III/2024, Việt Nam nhập khẩu 32.010 tấn thịt heo (HS 0203), trị giá 72,51 triệu USD, tăng 17% về lượng và tăng 18% về trị giá so với quý II/2024; nhưng so với quý III/2023 giảm 32,4% về lượng và giảm 39% về trị giá. Nhập khẩu thịt heo có xu hướng tăng trở lại từ tháng 5/2024 cho tới nay, Brazil, Nga, Canada, Đức và Hà Lan là những thị trường cung cấp thịt heo lớn cho Việt Nam. Trong đó, Brazil là thị trường lớn nhất cung cấp thịt heo cho Việt Nam với lượng đạt 11.800 tấn, trị giá 28,04 triệu USD, tăng 9,6% về lượng và tăng 16,9% về trị giá so với quý II/2024; nhưng so với quý III/2023 giảm 43% về lượng và giảm 45,6% về trị giá.
Hiện, trên cả nước, sản lượng heo sản xuất trong nông hộ nhỏ lẻ giảm còn 35 – 40%, sản lượng heo sản xuất tại các hộ chuyên nghiệp và trang trại đã chiếm tới 60 – 65%. Theo khuyến cáo từ Cục Thú y, các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ trong vùng xảy ra dịch không nên tái đàn bằng mọi giá, do mầm bệnh vẫn tiềm ẩn, nguy cơ thiệt hại cao.
Để đảm bảo cân đối nguồn cung cầu, nhất là dịp Tết Nguyên đán sắp tới, nguồn cung thịt heo sẽ phải tăng thêm từ 10 – 15%. Thời điểm này, nhiều đơn vị chăn nuôi đang tập trung tái đàn, tuy nhiên, muốn tái đàn bền vững, đảm bảo nguồn cung thì công tác phòng ngừa dịch bệnh là yếu tố tiên quyết.
Bộ Công Thương nhận định, nguồn cung thịt của Việt Nam thời gian tới cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ trong nước, nên dự báo nhập khẩu thịt và các sản phẩm thịt sẽ không tăng đột biến. Trong đó, mặt hàng nhập khẩu thời gian tới chủ yếu vẫn là các chủng loại thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của gia cầm; Thịt trâu, bò, heo tươi đông lạnh; Phụ phẩm ăn được sau giết mổ của heo, trâu, bò sống đông lạnh…
Thùy Khánh