Tình hình chăn nuôi cả nước tháng 3/2023

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong tháng 3/2023, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định. Ba tháng đầu năm, dù dịch bệnh trên gia súc, gia cầm được kiểm soát tốt nhưng chăn nuôi lợn gặp khó khăn do giá bán thịt hơi vẫn ở mức thấp trong khi giá nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi tăng cao. Chăn nuôigia cầm trên cả nước phát triển ổn định.

TÌNH HÌNH CHUNG

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong tháng 3/2023, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định. Ba tháng đầu năm, dù dịch bệnh trên gia súc, gia cầm được kiểm soát tốt nhưng chăn nuôi lợn gặp khó khăn do giá bán thịt hơi vẫn ở mức thấp trong khi giá nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi tăng cao. Chăn nuôigia cầm trên cả nước phát triển ổn định.

Giá trị sản xuất quý I tăng khoảng 4,69%, chiếm 35,2% tỷ trọng GTSX của lĩnh vực nông nghiệp chung;với sản lượng thịt hơi các loại chính đạt trên 1,9triệu tấn, tăng 6,0% so CKNT. Cụ thể: Đàn trâu ước giảm khoảng 2,4%, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 32,8 nghìn tấn, giảm 2,4%; Đàn bò ước tăng khoảng 1,9%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 130,5nghìn tấn, tăng 2,8%; sữa bò tươi đạt 323,5 nghìn tấn, tăng 8,6%; Đàn lợn ước tăng 6,2%, sản lượng thịt lợn hơi ước đạt 1.192,0 nghìn tấn, tăng 7,5%; Đàn gia cầm ước tăng 2,4%; sản lượng thịt ước đạt 563,2 nghìn tấn, tăng 4,2%; trứng ước đạt 4,7 tỷ quả, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2022.

Tình hình chăn nuôi lợn trong Quý I gặp khó khăn do giá bán thịt hơi vẫn ở mức thấp. Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, khu vực doanh nghiệp phát triển khá, dịch bệnh được kiểm soát. Trong tháng 3/2023, giá lợn hơi trên cả nước giảm do nguồn cung dồi dào trong khi mức tiêu thụ chậm. Giá gà giảm do sức mua giảm, tiêu thụ thịt gà ở các khu công nghiệp, bếp ăn tập thể giảm.

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 3 năm 2023 ước đạt 47,4 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 3 tháng đầu năm 2023 đạt 114,9 triệu USD, tăng 46,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 33,3 triệu USD, tăng 22,2%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 37 triệu USD, tăng 80,1%.

Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 3 năm 2023 ước đạt 326 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 3 tháng đầu năm 2023 đạt 740,7 triệu USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 354,6 triệu USD, tăng 5%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 302,3 triệu USD, tăng 0,5%.

Trong 3 tháng và 3 tháng đầu năm 2023, tình hình chăn nuôi lợn cả nước gặp khó khăn do giá bán thịt hơi vẫn ở mức thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do giá nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi tăng cao và kéo dài trong bối cảnh nguồn cung thịt lợn được hồi phục sau dịch tả lợn châu Phi. Chăn nuôi gia cầm trên cả nước phát triển ổn định, khu vực doanh nghiệp phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát, chỉ phát sinh một số ổ dịch nhỏ lẻ. Cụ thể:

Chăn nuôi trâu, bò:

Trong quý I năm 2023 diễn ra ổn định. Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê (TCTK), tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Ba năm 2023 là 2,23 triệu con, giảm 2,4%, tổng số bò là 6,41 triệu con, tăng 1,9% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng quý I ước đạt 32,8 nghìn tấn, giảm 2,4%; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng quý I ước đạt 130,5 nghìn tấn, tăng 2,8%; sản lượng sữa bò tươi quý I ước đạt 323,5 nghìn tấn, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2022.

tình hình chăn nuôi

Chăn nuôi lợn:

Trong quý I, tình hình chăn nuôi lợn trên cả nước đang gặp khó khăn do giá bán thịt hơi vẫn ở mức thấp, chưa có đấu hiệu khởi sắc, xu hướng giảm giá này đã kéo dài từ giữa năm 2022 đến nay. Người chăn nuôi lợn hiện nay gặp nhiều khó khăn khi giá bán thấp hơn chi phí sản xuất. Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê, tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Ba năm 2023 là 24,66 triệu con, tăng 6,2% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I ước đạt 1192,0 nghìn tấn, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2022.

Chăn nuôi gia cầm:

Đàn gia cầm cả nước phát triển ổn định trong quý. Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê, tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Ba năm 2023 là 532,4 triệu con, tăng 2,4% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I ước đạt 563,2 nghìn tấn, tăng 4,2%; sản lượng trứng gia cầm quý I ước đạt 4,7 tỷ quả, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2022.

Thú y

Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến ngày 24/3/2023 tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm như sau:

– Dịch cúm gia cầm: Trong tháng 3/2023, cả nước không phát sinh ổ dịch CGC. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 04 ổ dịch CGC A/H5N1 tại 04 tỉnh: Nghệ An, Cao Bằng, Quảng Ninh và Ninh Bình. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 55,55%, số gia cầm phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 78,47%. Hiện nay, cả nước không có ổ dịch CGC.

– Dịch lợn tai xanh: Trong tháng 3/2023, cả nước không phát sinh ổ dịch Tai xanh. Từ đầu năm đến nay, cả nước không phát sinh ổ dịch Tai xanh. Hiện nay, cả nước không có báo cáo ổ dịch Tai xanh.

– Dịch Lở mồm long móng: Trong tháng 3, cả nước phát sinh 03 ổ dịch LMLM tại 02 tỉnh Sơn La và Cao Bằng. Số gia súc mắc bệnh là 249 con, số gia súc tiêu hủy là 01 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 13 ổ dịch tại 05 tỉnh: Cao Bằng, Sơn La, Quảng Ngãi, Lạng Sơn và Phú Yên. Hiện nay, cả nước có 06 ổ dịch LMLM tại 02 tỉnh Cao Bằng và Sơn La chưa qua 21 ngày.

– Dịch tả lợn châu Phi: Trong tháng 3, cả nước phát sinh 08 ổ dịch tại 07 tỉnh. Tổng số lợn bị tiêu hủy là 192 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 73 ổ dịch tại 25 tỉnh; tổng số lợn bị tiêu hủy là 2.988 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 86,92%; số lợn phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 88,25%. Hiện nay, cả nước có 15 xã tại 11 tỉnh Ninh Bình, Cao Bằng, Thái Nguyên, Điện Biên, Sơn La, Quảng Bình, Khánh Hòa, Đăk Lăk, Bình Phước, Đồng Tháp, Kiên Giang có ổ dịch TLCP chưa qua 21 ngày

– Dịch Viêm da nổi cục: Trong tháng 3, cả nước phát sinh 01 ổ dịch tại tỉnh Quảng Ngãi. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 18 ổ dịch tại 05 tỉnh: Quảng Ngãi, Long An, Khánh Hòa, Tiền Giang và Bến Tre. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 88,88%; số lợn bị phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 96,91%. Hiện nay, cả nước có 03 ổ dịch VDNC tại 02 tỉnh Quảng Ngãi và Long An chưa qua 21 ngày.

THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI

Trong tháng 3/2023, giá lợn hơi trên cả nước giảm do nguồn cung dồi dào trong khi mức tiêu thụ chậm. Giá gà giảm do sức mua giảm, tiêu thụ thịt gà ở các khu công nghiệp, bếp ăn tập thể giảm.

Trên thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 4/2023 ở Chicago, Mỹ biến động giảm trong tháng qua với mức giảm 8,125 UScent/lb xuống mức 77,05 UScent/lb.

Tại thị trường trong nước, trong tháng 3/2023, giá lợn hơi trên cả nước giảm do do nguồn cung dồi dào trong khi mức tiêu thụ chậm. Tại khu vực miền Bắc, giá lợn hơi điều chỉnh giảm 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 48.000 – 50.000 đồng/kg. Cụ thể, giá lợn hơi thấp nhất khu vực là 48.000 đồng/kg, được ghi nhận tại các tỉnh gồm Yên Bái, Lào Cai, Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình. Giá lợn hơi tại các tỉnh Bắc Giang và Vĩnh Phúc hiện là 49.000 đồng/kg. Các tỉnh thành còn lại thu mua lợn hơi ở ngưỡng 50.000 đồng/kg, cao nhất khu vực.

Giá lợn hơi thị trường khu vực miền Trung, Tây Nguyên giảm 1.000 – 3.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 47.000 – 50.000 đồng/kg. Theo đó, lợn hơi tại tỉnh Hà Tĩnh đang được giao dịch với giá thấp nhất khu vực là 47.000 đồng/kg. Trong khi đó, 50.000 đồng/kg là giá thu mua lợn hơi cao nhất được ghi nhận tại Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa và Bình Thuận. Các tỉnh còn lại giá lợn hơi 48.000 – 49.000 đồng/kg.

Tại miền Nam, giá lợn hơi giảm 2.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 50.000 – 53.000 đồng/kg. Trong đó, Vĩnh Long, Hậu Giang và Bến Tre đang cùng thu mua lợn hơi ở chung mốc 50.000 đồng/kg. Lợn hơi tại An Giang và Vũng Tàu đang được giao dịch lần lượt với giá 51.000 đồng/kg và 52.000 đồng/kg. Giá lợn hơi tại Cà Mau là 53.000 đồng/kg.

Giá thu mua gà tại trại biến động giảm tại các vùng miền trong tháng 3/2023. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Bắc, miền Trung và miền Nam giảm 1.000 đồng/kg xuống mức 33.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Nam và miền Trung giảm 4.000 đồng/kg xuống mức 20.000 – 21.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Bắc giảm 4.000 đồng/kg xuống còn 29.000 đồng/kg. Giá gà giảm do sức mua giảm, tiêu thụ thịt gà ở các khu công nghiệp, bếp ăn tập thể giảm.

Giá trứng gà miền Bắc giảm 100 đồng/quả xuống mức 1.800 – 2.000 đồng/quả. Giá trứng gà miền Trung tăng 100 đồng/quả lên mức 2.000 – 2.200 đồng/quả. Giá trứng gà miền Đông Nam Bộ tăng 200 đồng/quả lên mức 2.200 – 2.300 đồng/quả. Giá trứng gà miền Tây Nam Bộ tăng 100 đồng/quả lên mức 2.000 – 2.100 đồng/quả.

 

THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU

– Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 3 năm 2023 ước đạt 47,4 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 3 tháng đầu năm 2023 đạt 114,9 triệu USD, tăng 46,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 33,3 triệu USD, tăng 22,2%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 37 triệu USD, tăng 80,1%.

 

THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU

– Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi:

Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 3 năm 2023 ước đạt 326 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 3 tháng đầu năm 2023 đạt 740,7 triệu USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 354,6 triệu USD, tăng 5%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 302,3 triệu USD, tăng 0,5%.

- Thức ăn gia súc và nguyên liệu:

Giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 3 năm 2023 ước đạt 490 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu 3 tháng đầu năm 2023 đạt 1,23 tỷ USD, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2022.

Trong 2 tháng đầu năm 2023, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường: Achentina (chiếm 38,2% thị phần), Hoa Kỳ (16,8%) và Ấn Độ (11,2%). So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ Achentina tăng 67,8%, Hoa Kỳ (+48,5%) và Ấn Độ (+139,2%).

- Đậu tương:

Khối lượng nhập khẩu đậu tương tháng 3 năm 2023 ước đạt 220 nghìn tấn với giá trị ước đạt 134,4 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 3 tháng đầu năm 2023 đạt 521,9 nghìn tấn và 347,7 triệu USD, giảm 0,4% về lượng nhưng tăng 4,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.

Hoa Kỳ, Canada và Canađa là 3 thị trường cung cấp đậu tương chính cho Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2023 với 98,4% thị phần.

- Lúa mì:

Ước nhập khẩu lúa mì tháng 3 năm 2023 đạt 680 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu đạt 240,4 triệu USD, đưa khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 3 tháng đầu năm 2023 đạt 1,3 triệu tấn và 469,7 triệu USD, tăng 23,2% về khối lượng và tăng 22,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.

Nguồn nhập khẩu lúa mì chính của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2023 là từ các thị trường: Ôxtrâylia (chiếm tỷ trọng 53,2%), Braxin (34,2%) và Canađa (7,5%). So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu lúa mì của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2023 từ Ôxtrâylia tăng 2,4%; Braxin (+141%) và Canađa (gấp 17,3 lần).

– Ngô:

Khối lượng ngô nhập khẩu tháng 3 năm 2023 ước đạt 1,1 triệu tấn với giá trị đạt 349 triệu USD, đưa khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 3 tháng đầu năm 2023 ước đạt 2,52 triệu tấn và 823,7 triệu USD, tăng 20,8% về khối lượng và tăng 22% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.

Nguồn nhập khẩu ngô của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2023 chủ yếu từ 3 thị trường: Braxin, Áchentina và Ấn Độ chiếm 92,6% thị phần. So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu ngô trong 2 tháng đầu năm 2023 từ Braxin tăng 261,3%, Áchentina (-65%) và Ấn độ (-31%).

Nguồn: channuoivietnam.com

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *