Phòng trị bệnh lở mồm long móng ở dê

(Người Chăn Nuôi) – Bệnh lở mồm long móng ở dê là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, do virus gây ra, có khả năng lây lan mạnh và hầu như không có phương pháp điều trị hiệu quả, nên dễ gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi.

Nguyên nhân

Bệnh lở mồm long móng do virus gây nên. Ở Việt Nam đã phát hiện chủ yếu 3 type gây bệnh là A, O và Asi.

lở mồm long móng ở dê

Đặc điểm dịch tễ

Loài mắc bệnh: Loài động vật móng guốc chẵn như trâu, bò, heo, dê, cừu, hươu, nai… Gia súc non bị bệnh nặng và dễ bị chết hơn gia súc trưởng thành. Trong tự nhiên, virus có thể lây nhiễm chéo giữa các loài với nhau. Bệnh cũng có thể lây sang người nhưng hiếm xảy ra.

Nguồn bệnh: Virus có trong nước bọt, dịch mụn nước, sữa, tinh dịch, các chất bài xuất, bài tiết của con vật mắc bệnh; dịch tiết trong đường hô hấp trên của người có thể lưu giữ virus trong 24 – 48 giờ. Virus lở mồm long móng thường được bài xuất ra ngoài trước khi con vật có biểu hiện triệu chứng lâm sàng của bệnh; với type O, heo bài xuất viruss trước khi có dấu hiệu lâm sàng đầu tiên 10 ngày, bò và cừu 5 ngày, trung bình 2,5 ngày. Heo mắc bệnh có thể bài thải 400 triệu đơn vị lây nhiễm virus lở mồm long móng/ngày; loài nhai lại bài thải khoảng 120 nghìn đơn vị lây nhiễm/ngày.

Đường truyền lây: Bệnh có thể lây trực tiếp do tiếp xúc giữa động vật mẫn cảm và động vật mắc bệnh khi nhốt chung, hoặc chăn thả chung trên đồng cỏ. Hoặc lây gián tiếp qua thức ăn, nước uống, máng ăn, máng uống, nền chuồng, dụng cụ chăn nuôi, tay chân, quần áo người chăn nuôi bị nhiễm virus. Bệnh lây lan từ vùng này sang vùng khác, nước này sang nước khác qua biên giới theo đường vận chuyển động vật, sản phẩm động vật ở dạng tươi sống có mang mầm bệnh (kể cả thịt ướp đông, da, xương, sừng, móng, sữa).

Triệu chứng

Triệu chứng lâm sàng phụ thuộc vào mức độ mẫn cảm của dê đối với virus, tình trạng sinh lý của dê và độc lực của virus.

Thời kỳ ủ bệnh thường từ 2 – 5 ngày, nhiều nhất 21 ngày. Dê bị bệnh sốt cao 40 – 410C, kém linh hoạt, con vật lờ đờ, miệng, mũi khô, đi tập tễnh sau đó chỉ nằm một chỗ. Dê kém ăn rồi bỏ ăn do xuất hiện nhiều mụn nước nhỏ bằng hạt đậu mọc sâu ở lớp niêm mạc miệng, vành mõm, nướu răng, lưỡi gây đau đớn.

Dê bị long móng, bàn chân sưng to, phần tiếp giáp giữa móng và chân bị nổi mụn nước, sau đó vỡ ra, nhiễm trùng lở loét, mưng mủ. Khi bệnh nặng có thể bị tụt móng.

Ở dê cái còn xuất hiện mụn trên bầu vú, nếu dê cái trong thời kỳ nuôi con sẽ không cho con bú. Có thể gây sẩy thai ở dê cái mang thai. Các vùng da có mụn trở nên tái xám. Sau khi các mụn vỡ ra sẽ để lại các vết loét rất sâu và làm cho dê đau đớn.

Bệnh tích

Một số trường hợp xuất hiện nhiều mụn nước ở họng, thực quản, dạ dày và ruột. Viêm xuất huyết toàn bộ đường ruột từ miệng tới hậu môn. Cơ tim biến chất, mềm, dễ nát, có vết xám, trắng nhạt hay vàng nhạt (tim có vằn). Màng tim sưng, chứa nước trong hơi đục. Màng tâm nhĩ có chấm xuất huyết đỏ bằng đầu đinh ghim.

Chẩn đoán bệnh

Chẩn đoán lâm sàng: Dựa vào các triệu chứng, bệnh tích điển hình của bệnh: dê sốt cao, có các mụn nước và vết loét trên miệng, chân, móng, vú…

Chẩn đoán phòng thí nghiệm: Xác định căn nguyên gây bệnh bằng phương pháp ELISA kháng nguyên hoặc phương pháp PCR.

Phòng bệnh

– Khi chưa có dịch: Tiêm phòng vaccine là biện pháp phòng bệnh hữu hiệu nhất. Thực hiện quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, lựa chọn con giống khỏe mạnh, biết rõ nguồn gốc từ vùng không có dịch bệnh lở mồm long móng. Chuồng trại phải đảm bảo vệ sinh thú y, thường xuyên quét dọn sạch sẽ, định kỳ tiêu độc, khử trùng 1 lần/tuần. Kết hợp chăm sóc nuôi dưỡng tốt, khẩu phần thức ăn của dê phải đầy đủ thành phần dinh dưỡng cần thiết cho từng giai đoạn phát triển.

– Khi có dịch: Khi thấy dê có hiện tượng ốm, sốt, bỏ ăn, chảy nước dãi, có bọt, có mụn nước ở vùng miệng, quanh móng chân hoặc chết bất thường phải tiến hành cách ly ngay những con ốm ra khu vực riêng; không được chăn thả, không bán chạy, không giết mổ, vứt xác gia súc chết và chất thải của chúng ra môi trường.

Báo ngay cho thú y hoặc chính quyền địa phương để được hướng dẫn biện pháp xử lý kịp thời. Thực hiện tiêu hủy những con chết, những con ốm nặng không có khả năng hồi phục theo đúng quy trình kỹ thuật có sự giám sát của cán bộ thú y, không làm phát tán mầm bệnh ra môi trường.

Thực hiện ngay công tác vệ sinh, khử trùng, tiêu độc. Đối với hộ có dịch phun hóa chất ngày 1 lần, xã có dịch 2 ngày 1 lần, thực hiện liên tục trong suốt thời gian có dịch. Tiêm phòng vaccine bao vây ổ dịch, tiêm từ ngoài vào trong, người tiêm phòng phải thực hiện tốt an toàn sinh học không làm lây lan dịch bệnh. Chấp hành các quy định về phòng, chống dịch của chính quyền địa phương và quy định của pháp luật về thú y. 

Điều trị

Điều trị tại chỗ: Rửa các vết loét ở miệng, lưỡi, chân, móng, bầu vú bằng một trong các dung dịch như nước muối, axit citric 1% hoặc thuốc tím 1%, phèn chua 2% (hoặc dùng các loại trái cây chua như khế, chanh vắt lấy nước, nhúng vào vải gạc sạch rồi rửa nhẹ lên vết loét ở miệng, lưỡi ngày 2 lần). 

Tiêm kháng sinh Procain Penicilin 

1 ml/10 – 20 kg/trọng lượng, ngày 1 lần, liên tục 3 ngày để đề phòng bội nhiễm. Bôi thuốc mỡ Penicilin, Tetracyclin vào vết thương.

Bổ sung dinh dưỡng để tăng sức đề kháng cho dê và thức ăn chứa axit để có thể điều chỉnh độ pH đường ruột (pH = 5) nhằm tăng khả năng diệt khuẩn. 

Nguyễn An

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *