Phát triển nguyên liệu: Nhìn xa trông rộng

(Người Chăn Nuôi) – Thời điểm hiện nay, giá gia cầm, heo… trên thị trường đang giảm sâu. Thế nhưng giá thức ăn chăn nuôi (TĂCN) lại tăng chóng mặt, nguyên nhân do phụ thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Tìm giải pháp giảm phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, tận dụng tốt nguồn nguyên liệu trong nước là bài toán cấp thiết.

8 – 9 lần tăng

Đầu tháng 8/2021, hàng loạt doanh nghiệp thông báo tiếp tục tăng giá bán TĂCN. Trong khi đó, giá gà công nghiệp đã xuống dưới 7.000 đồng/kg, thấp nhất trong 15 năm qua, giá heo hơi xuất chuồng cũng đã xuống mức thấp nhất trong 2 năm qua, khiến người chăn nuôi thua lỗ trầm trọng. Tính từ cuối năm 2020 đến nay, giá TĂCN đã tăng 8 lần liên tiếp, thậm chí có doanh nghiệp tăng tới 9 lần.

Chia sẻ tại Hội thảo trực tuyến “Tìm giải pháp bổ sung nguồn cung cấp nguyên liệu TĂCN tại Việt Nam” do Văn phòng Nông nghiệp, Đại sứ quán Mỹ và Tổ chức CropLife châu Á đồng phối hợp với Hiệp hội Chăn nuôi Gia cầm Việt Nam (VIPA) tổ chức ngày 12/8, bà Đinh Thị Thúy Phương, Vụ Thống kê giá (Tổng cục Thống kê), cho biết, từ cuối năm 2020 đến nay, đã có 8 lần tăng giá TĂCN. Nguyên nhân chính là do giá nguyên liệu TĂCN tăng mạnh trên thị trường thế giới. Tại Chicago, 6 tháng đầu năm nay, chỉ số giá TĂCN tăng 49,32% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá đậu tương tăng 65,64%; Ngô tăng 71,6%; Lúa mỳ tăng 24,41%… TS. Nguyễn Thanh Sơn, Chủ tịch VIPA cho biết, trong những năm qua, cùng với sự tăng trưởng của ngành chăn nuôi, ngành sản xuất TĂCN công nghiệp ở Việt Nam cũng đã tăng trưởng ngoạn mục, với mức tăng bình quân 13 – 15%/năm. Tổng sản lượng TĂCN công nghiệp đến năm 2020 là khoảng 25 triệu tấn. Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ 10 thế giới và số 1 khu vực Đông Nam Á về sản lượng TĂCN công nghiệp.

cung cầu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi

Theo dự báo của VIPA, nhu cầu TĂCN công nghiệp của nước ta sẽ cần khoảng 28 – 30 triệu tấn/năm trong 5 năm tới. Tuy nhiên, ngành TĂCN nước ta vẫn phải phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, hiện chiếm khoảng 70 – 85% tổng nhu cầu nguyên liệu. Nguyên nhân lượng nhập khẩu nguyên liệu TĂCN lớn như vậy và không ngừng gia tăng là do mỗi năm, ngành nông nghiệp trong nước chỉ có thể cung cấp tối đa 4,5 -5 triệu tấn ngô hạt, 4 triệu tấn cám, 4 triệu tấn sắn làm TĂCN, trong khi nhu cầu hàng năm cần tới 26 – 27 triệu tấn các loại, chủ yếu là ngô, đậu tương, lúa mì, dầu động thực vật. Do phụ thuộc quá lớn vào nhập khẩu, nên khi giá nguyên liệu TĂCN trên thế giới gia tăng, thì giá thành sản xuất và giá bán TĂCN thành phẩm lập tức tăng theo. Từ đó dẫn đến giá TĂCN trong nước luôn cao hơn mặt bằng chung của thế giới.

 

Bàn giải pháp “hạ nhiệt”?

Trước tình trạng đó, TS. Nguyễn Thanh Sơn cho rằng, bên cạnh các giải pháp về chính sách thuế, thương mại, đã đến lúc Việt Nam cần có một chiến lược phát triển nguồn nguyên liệu TĂCN trong nước một cách căn cơ, bài bản. Theo đó, cần có nhiều giải pháp đồng bộ, mà một trong các giải pháp đó là phát triển các loại cây trồng ứng dụng công nghệ sinh học (CNSH) làm nguyên liệu TĂCN có năng suất và sản lượng cao nhằm bổ sung thêm nguồn cung nguyên liệu TĂCN để đáp ứng được nhu cầu và hạ giá thành sản xuất trong nước. Tận dụng nguồn nguyên liệu phụ phẩm các ngành sản xuất, chăn nuôi trong nước như: Ngành thủy hải sản, công nghiệp chế biến…

Ông Trần Trọng Nghĩa, Trưởng đại diện Văn phòng Hội đồng ngũ cốc Mỹ tại Việt Nam thông tin, những nước đang cung cấp nguồn TĂCN trên thế giới bao gồm năng lượng (ngô) và protein (đậu tương) cũng là các quốc gia hàng đầu về canh tác và sản xuất cây trồng biến đổi  gen (BĐG). Trên thị trường thế giới, không phân biệt đó là ngô được sản xuất từ giống thông thường hay giống BĐG, nếu được phân loại cùng phẩm cấp (thường dựa vào nước sản xuất, độ ẩm, tỷ trọng của hạt) thì sẽ được xem là như nhau trong quá trình vận chuyển, thương mại và sản xuất TĂCN. Hiện tại, ngô BĐG đang chiếm tỷ lệ lớn và đóng góp khoảng 75% nguồn cung trên toàn cầu. 

Ông Trần Xuân Định, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng Việt Nam nhận định, hiện tại năng suất của các giống ngô lai truyền thống đã tới hạn, do đó, việc đưa vào sản xuất các giống ngô BĐG với năng suất cao và khả năng chống chịu tốt hơn, đồng thời mở rộng diện tích canh tác ngô sẽ là các giải pháp cơ bản để tăng sản lượng ngô sản xuất trong nước.

“Thống kê cho thấy, ngô BĐG đã giúp tăng năng suất thu hoạch thêm 30,4% (tương đương tăng thêm 2,03 tấn hạt tươi/ha hay 1,27 tấn hạt khô đã bỏ lõi/ha) so với các giống ngô lai truyền thống. Như vậy nếu mở rộng diện tích gieo trồng các giống ngô này, tiềm năng bổ sung thêm nguồn cung ngô hạt trong chuỗi TĂCN càng lớn”, ông Định nhấn mạnh.

Ngoài ra, nhiều ý kiến cho rằng, các hộ chăn nuôi cần phải liên kết ngang thành hợp tác xã, chi hội sản xuất để mua TĂCN khối lượng lớn trực tiếp từ các nhà máy sản xuất, sẽ giảm được chi phí qua các khâu trung gian là các cấp đại lý bán thức ăn. Về lâu dài, Bộ NN&PTNT cần tiếp tục nghiên cứu và triển khai thực hiện chính sách chuyển đổi diện tích đất nông nghiệp kém hiệu quả sang trồng các loại cây làm nguyên liệu sản xuất TĂCN.    

>> Bà Trần Ngọc Yến, Giám đốc Bộ phận phân tích của AgroMonitor cho biết, nếu tính cả lượng thức ăn do các trang trại, các hộ chăn nuôi tự phối trộn, thì tổng sản lượng TĂCN của Việt Nam hiện lên tới 30 – 33 triệu tấn. Tuy nhiên, Việt Nam hiện đang đứng thứ 2 thế giới về nhập khẩu đậu tương và thứ 5 về nhập khẩu ngô. Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu TĂCN chủ yếu từ châu Mỹ nên thời gian vận chuyển dài 25 – 40 ngày, chi phí vận chuyển cao.

                Phương Khang

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *