Phát triển giống gia cầm: Chất lượng là then chốt

(Người Chăn Nuôi) – Chăn nuôi gia cầm là một trong những ngành chủ lực của nông nghiệp Việt Nam, đóng góp quan trọng vào tổng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi. Ngành hàng gia cầm đang tích cực thay đổi để phát triển hiệu quả và bền vững. Một trong những giải pháp trọng tâm đưa ra là nâng cao chất lượng con giống.

Thị trường giống gia cầm ngày càng phong phú

Trong những năm qua, lĩnh vực chăn nuôi gia cầm của nước ta đã có những thay đổi ngoạn mục. Từ chăn nuôi phân tán, quy mô nhỏ, tự phát, dần dần chuyển sang chăn nuôi tập trung quy mô lớn, năng suất và chất lượng ngày càng được cải thiện. Chăn nuôi gia cầm dần trở thành một trong những nghề sản xuất chính trong sản xuất nông nghiệp. 

Năm 2024, tổng đàn gia cầm cả nước đạt 584,4 triệu con, mức cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2024. Sản lượng thịt gia cầm đạt 2,46 triệu tấn (tăng 6,9%), sản lượng trứng đạt 20,352 tỷ quả (tăng 5,1%), gồm 13,516 tỷ quả trứng gà và 6,913 tỷ quả trứng thủy cầm. Việt Nam hiện đứng thứ 10 thế giới về đàn gà và thứ 2 thế giới về đàn thủy cầm.

Một trong những nguyên nhân tạo nên thành quả đó là do nước ta sở hữu bộ giống gia cầm phong phú, có năng suất và chất lượng cao, bao gồm các giống gia cầm siêu thịt, siêu trứng, kiêm dụng, các giống nhập ngoại, nguồn gen quý trong nước và chọn tạo dòng giống mới. Cùng với đó là việc nhiều doanh nghiệp sản xuất giống trong nước cơ bản làm chủ được công nghệ sản xuất con giống bố mẹ trong nước…

Cơ cấu giống gà ở nước ta cơ bản được chia làm 4 nhóm gồm hướng trứng (khoảng 24,79%), gà thịt lông trắng (33,36%), gà thịt lông màu (35,29%) và gà nội khoảng 6,56%.

gia cầm giống

Cụ thể, các giống gà nội được kể đến như: gà Ri, Mía, Hồ, Đông Tảo, Tàu vàng, gà Tre, gà Chọi, gà Tè, gà Ác, gà H’Mông, gà nhiều cựa Phú Thọ, gà Tiên Yên, gà Ri Ninh Hòa…; Các giống gà hướng thịt có thể kể đến như gà lông trắng (như: gà ROSS, Cobb, Hubbard, Arbor Acres…), và gà lông màu (gà Redbro, Sasso, Kabir, JA57…), đều là các giống được nhập ngoại. Cùng đó là các giống gà hướng trứng như: Leghorn, Goldline 54, Brown Nick, Hyline, Lohmann Brown, Hisex Brown, ISA Brown, Babcock- 380, Novogen (Novo White và Novo Brown), VCN-G15, Isa Warren, I Shaver, Dominant, Ai Cập, Newhampshire Godollo, Yellow Godollo VCN-Z15.

Các giống gà kiêm dụng như Tam Hoàng, Lương Phượng, Sao, Grimaud, Rhode Island. Đây là những giống gà phù hợp với nhiều phương thức và quy mô chăn nuôi khác nhau. Trong đó, gà mái Lương Phượng được dùng để làm mái nền lai với các giống gà màu nhập ngoại và các giống gà nội như lai với gà Sasso, Kabir, gà Chọi, gà Mía, gà Hồ, gà Đông Tảo, Gà Móng…

Với đàn thủy cầm, hiện Việt Nam đã làm chủ được công nghệ sản xuất con giống bố mẹ trong nước, đồng thời chọn lọc tạo ra được một số dòng chất lượng cao và năng suất cao trên thế giới (đặc biệt là giống vịt siêu trứng).

Nhiều vướng mắc cần tháo gỡ 

Mặc dù đã có những bước tiến vượt bậc trong sản xuất con giống, đóng góp quan trọng cho sự tăng trưởng hiệu quả trong của ngành hàng gia cầm hiện nay. Tuy nhiên, theo đánh giá chung, phát triển giống gia cầm ở Việt Nam đang đối mặt với nhiều bất cập, bao gồm chất lượng giống chưa cao, quản lý giống còn hạn chế, và thiếu liên kết trong sản xuất cũng như tiêu thụ. Ngoài ra, sự cạnh tranh gay gắt từ các nước có ngành chăn nuôi gia cầm phát triển, cũng như những biến động của thị trường và giá cả, đã gây ra nhiều khó khăn cho những đơn vị sản xuất con giống gia cầm trong nước. Đặc biệt, người chăn nuôi thiếu vốn và đất đai để đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng giống và quy mô trang trại.

Thêm nữa, chi phí thức ăn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất, khiến biến động giá thức ăn tác động trực tiếp đến giá gà giống. Để thay đổi tình hình, các trại giống đã và đang tìm kiếm giải pháp sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước để giảm phụ thuộc nhập khẩu. Tuy nhiên, việc chuyển đổi này cần thời gian và đầu tư công nghệ phù hợp.

Nhức nhối hơn cả là vấn đề nhập lậu. Gà giống và gà thịt nhập lậu vận chuyển trái phép từ các cửa khẩu đã khiến các cơ sở sản xuất gà giống trong nước và người chăn nuôi gia cầm lao đao. Theo đánh giá, với năng lực hiện tại, gà giống sản xuất trong nước cơ bản đã đáp ứng đủ cho người chăn nuôi, chính vì thế, khi số lượng lớn gà giống nhập lậu vào đã dẫn tới cung vượt cầu, “dìm” chết gà giống sản xuất trong nước. Nguy hại hơn, gà giống “3 không” (gồm không vaccine, không nguồn gốc, không kiểm dịch) còn khiến tình hình dịch bệnh thêm khó kiểm soát.

Đã có hàng trăm vụ vận chuyển giống gia cầm trái phép bị phát hiện và ngăn chặn, hàng triệu con giống gà, vịt các loại bị tiêu hủy. Vậy nhưng, vẫn không ít vụ nhập lậu trót lọt, người chăn nuôi và cơ sở sản xuất giống trong nước gánh hậu quả nghiêm trọng.

Theo Hiệp hội Gia cầm Việt Nam, thời gian qua, nhiều doanh nghiệp sản xuất giống gia cầm trong nước phải giảm đàn 50 – 60% vì không thể chịu nổi thua lỗ khi bán con giống gà, vịt dưới giá thành sản xuất.

Chiến lược để thay đổi

Con giống là yếu tố quan trọng tạo nên chất lượng và hiệu quả của ngành chăn nuôi. Để tạo chuyển biến tích cực cho ngành hàng này, đã có nhiều giải pháp được đưa ra để thay đổi cục diện. 

Năm 2021, Đề án “Phát triển công nghiệp sản xuất giống vật nuôi đến năm 2030” đã được Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu chung là nâng cao năng lực sản xuất giống vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, giống vật nuôi đặc sản đáp ứng nhu cầu sản xuất chăn nuôi trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu.

Cụ thể, xây dựng được ngân hàng giống quốc gia, chính sách hỗ trợ thúc đẩy tiến độ các dự án sản xuất giống mới có quy mô lớn; ưu tiên, khuyến khích các doanh nghiệp có ứng dụng công nghệ lõi, công nghệ sinh học và quản lý giống theo hình tháp trong sản xuất giống.

Nâng cấp, hiện đại hóa một số trung tâm giống hiện có và tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ trong ngành giống vật nuôi, tạo động lực thu hút đầu tư và thúc đẩy sản xuất giống vật nuôi.

Ngoài ra, Đề án cũng hướng đến việc tổ chức chọn lọc, nhân giống và sản xuất giống đồng bộ theo hệ thống cấp giống; áp dụng phương pháp quản lý giống vật nuôi theo mô hình tháp giống gắn mã định danh quốc gia đối với các cơ sở nuôi giữ giống gốc, cơ sở nghiên cứu, cơ sở khảo nghiệm, kiểm định chất lượng giống; nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ sinh học và tiếp thu nhanh các tiến bộ kỹ thuật mới để sản xuất giống và phát triển chăn nuôi.

Khai thác và phát triển nguồn gen giống vật nuôi bản địa theo hướng sản xuất hàng hóa có hiệu quả gắn với du lịch sinh thái; Xây dựng cơ chế, chính sách để tạo động lực thúc đẩy việc xã hội hóa các hoạt động triển khai công nghiệp sản xuất giống vật nuôi. Đồng thời tăng cường năng lực sản xuất giống tại chỗ ở các địa phương.

Thêm vào đó, ngành chăn nuôi cần tiếp tục đầu tư các cơ sở nuôi giữ, bảo tồn, chọn lọc, nhân các giống gia cầm quý trong nước để làm nguyên liệu lai giữa các giống gia cầm nội và lai giữa các giống gia cầm nội với gia cầm ngoại, tạo con lai thương phẩm có năng suất, chất lượng cao, cung cấp cho thị trường trong nước và hướng xuất khẩu.

Phát triển giống gia cầm trong nước đòi hỏi sự nỗ lực của các cấp, ngành, các nhà khoa học, doanh nghiệp và người chăn nuôi. Để khắc phục những hạn chế nội tại và phát huy như kỳ vọng, có lẽ ngành gia cầm cần thêm thời gian và sự đầu tư lớn. Tuy nhiên, với những tiềm năng và lợi thế vốn có cùng sự hỗ trợ của nhà nước và các bên liên quan, việc phát triển giống gia cầm trong nước sẽ tiếp tục đạt được những thành công, đóng góp vào sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp và kinh tế đất nước.

➢ Phấn đấu đến năm 2030, lĩnh vực sản xuất giống gia cầm đáp ứng tối thiểu 80% nhu cầu giống gà, 100% nhu cầu giống vịt cho chăn nuôi trong nước. Cùng đó, nhập khẩu các giống vật nuôi cấp cụ kỵ, ông bà, giống thuần có năng suất cao để làm tươi máu và cải tạo năng suất các giống vật nuôi hiện có.

Phan Thảo

TS Nguyễn Quý KhiêmTS Nguyễn Quý Khiêm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gia cầm Việt Nam: Đảm bảo giống gia cầm có năng suất cao, đáp ứng yêu cầu an toàn dịch bệnh

Trong 6 tháng đầu năm 2025, chăn nuôi gia cầm trên cả nước có nhiều thuận lợi, thời tiết khí hậu tương đối ổn định, dịch bệnh trên đàn gia cầm cơ bản được kiểm soát, tuy vẫn xảy ra một số ổ dịch cúm ở vài nơi nhưng không có nguy cơ lây lan. Các chính sách hỗ trợ về con giống, thức ăn chăn nuôi và vốn vay ưu đãi đã góp phần khuyến khích người chăn nuôi tái đàn, mở rộng quy mô sản xuất. 

Theo số liệu của Cục Chăn nuôi và Thú y, tính đến thời điểm cuối tháng 6/2025, tổng đàn gia cầm cả nước đạt khoảng 585,05 triệu con, tăng 4% so với cùng thời điểm năm 2024; sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 1.277,3 nghìn tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ; sản lượng trứng ước 10,5 tỷ quả, tăng 4,3%. Nhìn chung, 6 tháng đầu năm, đàn gia cầm cả nước tiếp tục tăng trưởng, riêng khu vực doanh nghiệp phát triển về số lượng trang trại và quy mô đàn. 

Mặc dù vậy, chăn nuôi gia cầm trong thời gian qua gặp khá nhiều khó khăn về thị trường tiêu thụ, giá bán con giống, sản phẩm trứng và thịt luôn ở mức thấp hơn giá thành, người chăn nuôi và doanh nghiệp thua lỗ kéo dài suốt từ đầu năm đến nay. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do người dân tăng đàn ồ ạt, một số cơ sở hộ gia đình tự phát chuyển từ chăn nuôi thương phẩm sang sản xuất giống; tình trạng nhập khẩu sản phẩm gia cầm giá rẻ kém chất lượng và nhập lậu gia cầm sống qua biên giới diễn ra khá phức tạp. Mặc dù ngay từ đầu năm Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chỉ đạo quyết liệt, các cơ quan, địa phương, báo đài, Hiệp hội vào cuộc sát sao nhưng vẫn còn là vấn nạn. Chính vì vậy, chất lượng giống gia cầm giảm, không đảm bảo về an toàn dịch bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm.

Để nâng cao chất lượng con giống gia cầm, theo tôi, các cơ sở sản xuất cần thực hiện tốt Luật Chăn nuôi, Luật Thú y và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành trong việc tuân thủ điều kiện sản xuất giống, điều kiện cơ sở an toàn dịch bệnh. Cùng đó, đẩy mạnh công tác nghiên cứu và sản xuất giống gia cầm chất lượng cao, đảm bảo các giống gia cầm có năng suất cao và đáp ứng yêu cầu về an toàn dịch bệnh.

Nâng cao năng lực quản lý chất lượng giống gia cầm thông qua ứng dụng công nghệ gen, hệ thống kiểm tra ADN và các chỉ thị phân tử. Đồng thời ứng dụng công nghệ cao và sản xuất bền vững. Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ số, như hệ thống giám sát dịch bệnh để tối ưu hóa công tác kiểm soát dịch bệnh và bảo vệ sức khỏe vật nuôi.

Bên cạnh đó, ngành hàng cũng cần xây dựng cơ sở dữ liệu về chăn nuôi gia cầm và áp dụng các phần mềm quản lý, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, cải thiện năng suất và chất lượng giống gia cầm.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *