Ngành chăn nuôi lớn mạnh cùng hội nhập

(Người Chăn Nuôi) – Xuất phát điểm từ nền chăn nuôi tự cung tự cấp, ngành chăn nuôi Việt Nam đã và đang trưởng thành cùng quá trình hội nhập của đất nước vào sự phát triển thịnh vượng chung của khu vực, châu lục và thế giới. Ngành chăn nuôi Việt Nam đã và đang khẳng định vai trò của mình trên trường quốc tế.

Kết quả ấn tượng

Ngành chăn nuôi là một trụ cột của nền nông nghiệp đất nước, chiếm 1⁄4 tỷ trọng toàn ngành.

Trước đây, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu phục vụ thị trường nội địa nhưng khi đất nước hội nhập thì sản phẩm chăn nuôi đã được cả nước quan tâm đầu tư để có sức cạnh tranh trên thị trường nội địa trước làn sóng nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi, từng bước mở rộng xuất khẩu.

Trong bối cảnh toàn ngành chăn nuôi thế giới bị ảnh hưởng vì dịch bệnh, chiến tranh, suy thoái kinh tế thì ngành chăn nuôi Việt Nam vẫn cho thấy những bước phát triển vững chắc, ổn định. Năm 2023 tổng sản lượng của ngành tăng 6,38% so với năm 2022.

Năm 2024, ngành nông nghiệp nói chung và chăn nuôi nói riêng tiếp tục đạt những kết quả khả quan. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 11 tháng năm 2024 đã đạt 56,74 tỷ USD, thặng dư thương mại đạt 16,46 tỷ USD, tăng 52,8%. Với ngành chăn nuôi, ước tính tổng số đàn heo của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 11/2024 tăng khoảng 3,5% so với cùng thời điểm năm 2023; chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, đàn gia cầm cả nước tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước.

chăn nuôi

Sản phẩm yến sào của Việt Nam được xuất khẩu sang nhiều thị trường quốc tế. Ảnh: Kỳ Nam 

Giữ vững thị trường nội địa, đẩy mạnh xuất khẩu

Khi nền kinh tế đất nước mở cửa, nhiều người đặt kỳ vọng vào xuất khẩu công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch…; song thực tế cho thấy nông nghiệp vẫn là một thế mạnh và là trụ cột của quá trình “sánh vai với các cường quốc”.

Đối với ngành chăn nuôi, áp lực sản phẩm nhập khẩu rất lớn. Song cơ bản, sản phẩm nội địa vẫn được người dân tin dùng phổ biến. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong quý III/2024, Việt Nam nhập khẩu 221,16 nghìn tấn thịt và sản phẩm từ thịt, với trị giá đạt 473,31 triệu USD, tăng 2,5% về lượng và tăng 14,7% về trị giá so với quý trước và tăng 4,2% về lượng, nhưng giảm 0,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.

Rõ ràng, ngành chăn nuôi đang dần lấy lại vị thế trên thị trường nội địa. Mặt hàng chủ lực thịt heo, trong quý III/2024, Việt Nam nhập khẩu 32.010 tấn, giảm 32,4% so với cùng kỳ, tương đương trị giá 72,51 triệu USD, giảm 39% so với cùng kỳ. Tổng đàn heo cả nước tháng 11/2024 tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Giá heo hơi đang ở mức có lợi cho người nuôi khuyến khích các cơ sở chăn nuôi quy mô lớn và các hộ nuôi nhỏ lẻ khôi phục, mở rộng đàn. Đây là những dấu hiệu cho thấy sản phẩm trong nước đang được tiêu thụ tốt và một phần được dành cho xuất khẩu.

Trong 10 tháng đầu năm 2024, thịt và các sản phẩm thịt của Việt Nam xuất khẩu tới 35 thị trường. Hồng Kông (Trung Quốc) vẫn là thị trường xuất khẩu thịt và các sản phẩm thịt lớn nhất của Việt Nam với 8.600 tấn, đạt 51,99 triệu USD, tăng 9,7% về lượng và 6,6% về giá trị so với cùng kỳ.

Dự báo, sản lượng thịt heo của Việt Nam trong năm 2025 dự kiến ghi nhận 3,8 triệu tấn, tăng 3% so với năm 2024, nhờ quá trình mở rộng đàn heo sau khi khắc phục hậu quả dịch tả heo châu Phi. Tiêu thụ thịt heo của Việt Nam dự báo khoảng 3,9 triệu tấn vào năm 2025, tăng 3,3% so với cùng kỳ và tăng lên 4,7 triệu tấn vào năm 2030, tương ứng với mức tăng trưởng bình quân 3,1%/năm. 

Chú trọng sản xuất thức ăn, con giống

Chủ động trong sản xuất thức ăn chăn nuôi là nền tảng để phát triển ngành chăn nuôi và hạ giá thành sản phẩm.

Đề án Phát triển công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi đề ra mục tiêu sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp đạt 24 – 25 triệu tấn vào năm 2025 và 30 – 32 triệu tấn vào năm 2030. Đề án đưa ra định hướng công nghiệp hóa sản xuất các loại thức ăn bổ sung trong nước có lợi thế (chế biến vi sinh vật, enzyme, thảo dược, các loại hợp chất thiên nhiên, khoáng đa lượng, khoáng vi lượng, khoáng tự nhiên…), cung cấp khoảng 20 – 25% nhu cầu vào năm 2025 và 30 – 35% vào năm 2030.

Chính phủ và ngành nông nghiệp đề ra mục tiêu giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt từ 1 – 1,5 tỷ USD vào năm 2025 và từ 3 – 4 tỷ USD vào năm 2030. Để đảm bảo việc xuất khẩu vững chắc, ổn định, dự kiến đến năm 2030, nước ta có thể chủ động sản xuất được nguồn giống vật nuôi chủ lực cấp bố mẹ và con thương phẩm có năng suất, giảm nhập khẩu các giống vật nuôi chủ lực: đáp ứng tối thiểu 90% nhu cầu giống heo, 80% nhu cầu giống gà, 100% nhu cầu giống vịt, 70% nhu cầu giống bò thịt.

Đề án phát triển công nghiệp giết mổ, chế biến và thị trường sản phẩm chăn nuôi cũng đặt ra định hướng tỷ lệ gia súc, gia cầm được giết mổ tập trung công nghiệp đạt tương ứng khoảng 60% và 40% vào năm 2025, khoảng 70% và 50% vào năm 2030.

Hạn chế nhập khẩu

Hiện, Việt Nam còn phải nhập một khối lượng lớn nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi. Nhập khẩu ngô trong 11 tháng đầu năm 2024 đạt trên 11,11 triệu tấn, trị giá gần 2,7 tỷ USD, giá trung bình 242,7 USD/tấn, tăng 32,9% về lượng, tăng 7% kim ngạch nhưng giảm 19,5% về giá so với 11 tháng đầu năm 2023.

Cũng trong 11 tháng của năm 2024, lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt trên 5,37 triệu tấn, tương đương gần 1,48 tỷ USD, tăng 34,8% về khối lượng, tăng 8,3% về kim ngạch so cùng kỳ.

Theo số liệu sơ bộ từ Hải quan, 11 tháng của năm 2024, Việt Nam đã chi tổng số tiền gần 38.000 tỷ đồng (1,55 tỷ USD), để nhập khẩu thịt, trung bình mỗi tháng khoảng 3.450 tỷ đồng. Phần lớn nguồn cung đến từ Ấn Độ, Mỹ, Nga và Đức.

Tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, việc nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu nguyên liệu là không thể tránh khỏi, song việc tự chủ nguyên liệu sẽ đảm bảo cho việc xây dựng thương hiệu và tăng sức cạnh tranh cho ngành chăn nuôi.

Giá trị của hội nhập

Các hiệp định quan trọng như Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA); Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP); Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA); Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA); Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA); Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)…; đều khai thông các thị trường giúp sản phẩm nông nghiệp nói chung và sản phẩm ngành chăn nuôi nói riêng có chỗ đứng trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, quá trình hội nhập cũng cho thấy, các thị trường đều quan tâm đến mức dư lượng tối đa thuốc bảo vệ thực vật (MRL), dư lượng kháng sinh và các biện pháp SPS liên quan đến thức ăn chăn nuôi, phụ gia thực phẩm và vật liệu tiếp xúc thực phẩm…

Để sản phẩm chăn nuôi có sự đột phá về xuất khẩu, chắc chắn năm 2025 và những năm tiếp theo, ngành chăn nuôi sẽ cần những nguồn lực và sự nỗ lực đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; nhằm tăng sản lượng, giảm giá thành, nâng cao chất lượng, tận dụng tốt các hiệp định thương mại, đưa sản phẩm chăn nuôi Việt Nam đến với người tiêu dùng toàn thế giới.  

>> Chăn nuôi heo của Việt Nam đang đứng thứ 6 thế giới, cung cấp khoảng 4,5 triệu tấn thịt hơi. Chăn nuôi gia cầm cung cấp khoảng 2,3 triệu tấn thịt hơi và 19,2 tỷ quả trứng mỗi năm. Đặc biệt, năm 2023 Việt Nam đã xuất khẩu đạt giá trị 515 triệu USD, tăng tới 26% so với năm 2022. 

Nguyễn Anh

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *