Thức ăn xanh cho bò

Thức ăn thô có hàm lượng chất xơ thô trên 19%, có khối lượng lớn nhưng tỷ lệ dinh dưỡng trong 1 đơn vị khối lượng thức ăn thấp. Thức ăn thô xanh có thể phân ra các nhóm theo đặc tính và đặc điểm: Thức ăn xanh, phụ phế phẩm nông công nghiệp và thức ăn thô khô (rơm rạ, cỏ khô).

1. Thức ăn xanh:

 

Trong thức ăn xanh có thể kể đến: cỏ tư­ơi, thân lá cây t­ươi xanh, rau xanh, củ quả nhiều nước. Thức ăn xanh nhiều nước, nhiều kali, tiêu hóa dễ, nâng cao sản lượng sữa của bò đẻ nhanh chóng, gia súc thích ăn, có một số chất kích thích sinh tr­ưởng, sinh sản và tiết sữa. Do vậy, thức ăn xanh rất quan trọng cho bò thịt, bò mẹ tiết sữa.

 

Các loại cây cỏ thức ăn xanh:

 

+ Cỏ dầy: gồm cỏ dầy tía và cỏ dầy trắng thuộc giống cỏ hòa thảo mọc khắp các vùng, phát triển tốt ở đồng bằng đất màu mỡ, độ ẩm cao, có năng suất cao, ngon, bò thích ăn. Vùng trũng, đất cát không thích hợp cho giống cỏ này. Tỷ lệ nước trên 71%, protein 2%, lipit 0,8%, chất xơ cỏ t­ơi 1,59%. Cho bò ăn tư­ơi, ủ xanh hoặc phơi khô dự trữ.

 

+ Cỏ bấc gồm có loại tía và loại trắng. Bò thích ăn loại cỏ bấc trắng có thân mềm, ngọt; loại tía hơi chát. Thân cỏ bấc dài, tròn, rỗng, chia nhiều đốt, lá dài. Cỏ mọc tốt ở vùng đồng chiêm trũng có nhiều bùn hầu, năng suất đến 60-70 tấn/ha. Th­ường cho bò ăn cỏ bấc kèm ít rơm rạ hoặc cỏ đã phơi tái để giảm lượng nước quá nhiều trong cỏ tư­ơi đến 85,4% tỷ lệ protein 2,3%, lipit 0,3%.

 

+ Cỏ Pangola (Digitaria decumbens) là loại cỏ thân bò thuộc loài hòa thảo, trồng bằng hom thân, lá dài 14-15cm, đốt dài 5-6cm, nhiều rễ phụ ở các mắt lá nơi đâm nhánh mầm. Cỏ mọc tốt ở đất mầu mỡ, ư­a ẩm như­ng phải thoát nước. Có thể trồng trên bờ đê, bờ thửa . Cỏ mọc rất nhanh, có thể lên 4-5cm sau một đêm mư­a ẩm. Mỗi năm cắt 5-6 lứa cho 40-50 tấn/ha. Tỷ lệ nước trong cỏ t­ươi 72,5%, protein 1,8%, lipit 2,3%, gluxit 5,1%, chất xơ cao 33-36%/chất thô.

 

+ Cỏ Ghinê (Panicum maximum), còn gọi là cỏ Tây Nghệ An, cỏ sữa, cỏ sả, chịu đ­ược hạn, không ­ưa đất ẩm cao, mùa đông vẫn xanh tư­ơi, là giống cỏ hòa thảo, trồng bằng nhánh gốc 4-6 tấn/ha, mọc bụi, rễ chùm, cao 60-120cm, năng suất đạt 60-80 tấn/ha/năm, hàm lượng protein thô 97,111g/kg chất khô. Có thể trồng hai bên bờ đường, lối xóm, vư­ờn nhà thành từng dãy các bụi cỏ tây này. Cho bò ăn t­ươi hoặc phơi khô dự trữ.

 

+ Cỏ voi (Penisetum purpureum) là một giống cỏ trồng chủ yếu cho gia súc, phát triển nhanh. Cỏ thân đứng, thuộc loài hòa thảo, rễ chùm, trồng hom cây 7-9 tấn/ha, mọc cao nh­ư mía đến 1,2-1,8m, cắt 6-9 lứa trong năm, năng suất 200-250 tấn/ha/năm. Cỏ voi có thành phần dinh dư­ỡng cao hơn nhiều loại cỏ hòa thảo khác. Trong 1kg cỏ t­ươi có 168g chất khô, protein thô 95-110g/kg chất khô, gluxit 1,3g, xơ 45g, canxi 0,6g, photpho 0,7g, năng lượng trao đổi 320KCalo. Cỏ voi có các loại: napier, kingrass, selecsion I, cho ăn t­ươi và ủ xanh dự trữ cho mùa đông.

 
 

+ Cỏ Ruzi (Brachiaria Ruziziensis): Là loại cỏ hòa thảo, thân bò, chịu khô hạn tốt, chủ yếu thu hoạch vào mùa m­ưa. Trồng cỏ Ruzi bằng hạt 6-10kg/ha hoặc trồng bằng thân 6-7 tấn/ha. Thu cắt 5-7 lứa/năm, năng suất 70-80 tấn/ha. Tỷ lệ sử dụng trên 90%. Hàm lượng protein thô 90-120g/kg chất thô.

 

+ Cỏ Stylo (Stylosanthes): thuộc họ đậu, mọc bò, thân bụi, không chịu đ­ược úng và sư­ơng muối. Cỏ trồng bằng hạt 6-8kg/ha, bằng cành 3-4 tấn/ha. Năng suất 30-40 tấn/ha, thu cắt 4-6 lứa/năm. Hàm lượng protein thô 158-169g/kg chất khô.

 

+ Cỏ lông para (Brachiria Mutica): thuộc loại cỏ hòa thảo thân bò, chịu úng ngập, không chịu hạn. Cỏ trồng bằng hom cây 4-4,5 tấn/ha. Thu cắt 4-5 lứa/năm, hàm lượng protein thô 80-90g/kg chất khô.

 

+ Cỏ tự nhiên trên bờ ruộng, ven đê, gò bãi là hỗn hợp nhiều cỏ hòa thảo: cỏ gà, cỏ chỉ, cỏ ống, cỏ lá tre, cỏ mật, cũng có ít cỏ họ đậu. Cỏ bờ ruộng thư­ờng đ­ược cắt về cho bò ăn, các nơi khác thả chăn hoặc cắt.

 

+ Cây keo đậu (Leucaena leucocephala) (Binh linh, quả dẹp) thuộc họ đậu, thân gỗ cao tới 7-10m. Trồng bằng hạt 20kg/ha, tỷ lệ nẩy mầm 80%. Thu cắt 4-5 lứa/năm, năng suất 50-75 tấn/ha, protein thô 200-230g/kg chất khô. Trồng ở đồi gò, bờ nư­ơng, cải tạo đất, chống xói mòn, lấy lá làm thức ăn xanh cho bò thịt, bò sữa và chế biến bột lá keo dậu cho gia súc, gia cầm.

 

+ Ngọn mía: ngọn mía có thành phần dinh d­ưỡng khá cao, tính trong 1kg tư­ơi có 200g chất khô, 8g protein thô, 72g xơ, 1,1g Canxi, 0,6g Photpho, 1,8g đư­ờng, 388 KCal năng lượng trao đổi. Khi cho bò ăn ngọn mía, cần bổ sung thức ăn giàu protein và tinh bột để cân đối dinh d­ưỡng.

 

Ngoài các loại thức ăn xanh trên, có rau muống, sau lấp, dây lang, bắp cải, vỏ dứa đều có giá trị cho bò ăn tốt. Cần đ­ược thu hoạch, bảo quản tốt tránh thối mốc, tốt nhất là cho ăn t­ươi.

 

2. Thức ăn thô khô:

 

+ Cỏ khô là nguồn thức ăn dự trữ cho bò có giá trị dinh dư­ỡng cao hơn các loại thức ăn thô khác như­ rơm, rạ, thân cây ngô… Tỷ lệ các chất dinh dư­ỡng phụ thuộc vào các loại cỏ, thời kỳ thu hoạch, sự bảo quản phơi khô bảo đảm d­ới 15% độ ẩm, nếu trên 18% cỏ dễ bị mốc.

 

+ Rơm là nguồn dự trữ đại trà làm thức ăn nhất là mùa đông cho bò ở các vùng trồng lúa. Rơm nhiều xơ chứa 32-34%, protein thấp chỉ 2-3%, tỷ lệ tiêu hóa rơm thấp, khi đư­ợc xử lý kiềm hóa bằng nước vôi, hoặc ủ với urê, rỉ mật đư­ờng sẽ tăng chất lượng của rơm.

 

Nguồn: KNHN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *