(Người Chăn Nuôi) – Có nhiều nghiên cứu về phytase, tuy nhiên hiệu quả của nó đối với hệ vi sinh đường tiêu hóa ở gia cầm vẫn chưa được biết đến nhiều. Đây là một trong những enzyme ngoại sinh được nghiên cứu nhiều nhất về ứng dụng nó vào chế độ dinh dưỡng vật nuôi.
Bổ sung phytase ngoại sinh vào khẩu phần ăn của gà thịt đã thành thói quen thường xuyên vì tác dụng tích cực của phốt pho. Phytase giải phóng phốt pho từ phức hợp phytate (PP) trong tất cả các loại thức ăn có nguồn gốc thực vật, phytase đã giảm lượng phốt phát vô cơ và canxi cần thiết trong công thức thức ăn, thông thường được cung cấp qua mono phốt phát hoặc dicalcium phốt phát. Tuy nhiên, do phytase giải phóng nhiều P hơn Ca (theo tỷ lệ yêu cầu), dẫn đến việc bổ sung thêm đá vôi để duy trì tỷ lệ 2:1 Ca:P trong khẩu phần ăn.
Mặt khác, phytase tăng cường khả năng tiêu hóa axit amin (AA) vì chúng ngăn chặn sự hình thành các đột biến về di truyền (de novo) của phức hợp protein – phytate nhị phân trong ruột. Trong khi một số phytase có sẵn ở Austtralia, thì phytase VTR ngoại sinh Microtech được sử dụng trong nghiên cứu này là một sản phẩm mới gia nhập thị trường Australia.
Xây dựng thử nghiệm
Tổng số 960 con gà trống Ross 308 một ngày tuổi được phân chia ngẫu nhiên vào 4 nghiệm thức với 6 lần lặp lại với 40 con trên mỗi chuồng. Nghiệm thức gồm khẩu phần cơ bản chứa thành phần lúa mì, hoặc khẩu phần đối chứng dương (PC) hoặc đối chứng âm (NC), không có và có bổ sung phytase của vi khuẩn (Escherichia coli) biểu hiện trong Pichia pastoris (Microtech 10000 plus; Guangdong VRT Biotech) ở tỷ lệ 1.000 FTU/kg.
Các khẩu phần ăn cơ bản bột mì và khô đậu được xây dựng cho giai đoạn đầu (1 – 21 ngày sau khi nở) và giai đoạn xuất chuồng (22 – 42 ngày sau khi nở). Chế độ ăn PC được xây dựng để đáp ứng các thông số kỹ thuật về chất dinh dưỡng cho gà Ross 308 2014. Chế độ ăn NC được xây dựng với mức giảm 1,6 g/kg Ca; 1,3 g/kg P và 0,3 g/kg Na so chế độ ăn PC. Các khẩu phần ăn được ép viên bằng hơi nước ở nhiệt độ điều hòa 80ºC và các hoạt tính của phytase cũng được phân tích. Bốn chế độ ăn không bổ sung phytase chứa trung bình 365 FTU/kg trong khi bốn chế độ ăn bổ sung chứa 1.215 FTU/kg phytase hoạt tính, sau đó ép viên bằng hơi. Hiệu suất tăng trưởng và hệ số tiêu hóa axit amin (AA) biểu kiến đã được theo dõi và tính toán.
Kết quả và thảo luận
Hiệu suất tổng thể của gia cầm trong nghiên cứu này khá ấn tượng. Những con gà Ross 308 đực trong nghiên cứu vượt các mục tiêu về hiệu suất của Aviagen 2014 về tăng trọng 15,9% và FCR là 15,5% từ 1 đến 42 ngày sau khi nở.
Hình 1
Hình 2
Trong giai đoạn khởi đầu, Microtech đã giúp gia cầm tăng trọng lượng ở cả khẩu phần PC và NC lần lượt là 2,44% và 2,18% (hình 1) và tăng lượng ăn 1,82% (hình 2). Những vật nuôi ở khẩu phần đối chứng âm bổ sung Microtech đạt mức tăng trọng lượng tương tự như những con gia cầm được cung cấp chế độ ăn đối chứng dương không bổ sung phytase. Ở giai đoạn nuôi tăng trưởng, có sự tương tác (p < 0,05) giữa chế độ ăn và tỷ lệ bổ sung phytase mà nguyên nhân là do phytase đã làm tăng đáng kể mức tăng trọng tới 3,30% (2.501 so 2.421 g/con) sau khi bổ sung phytase vào khẩu phần đối chứng âm. Những con gia cầm ăn khẩu phần NC bổ sung phytase có mức tăng trọng lượng tốt hơn so những con được ăn khẩu phần PC có hoặc không bổ sung phytase. Ở ngày nuôi 42, Microtech đã mang lại tỷ lệ FCR ở khẩu phần PC và NC lần lượt là 1,14% và 0,83% (hình 3).
Hình 3
Bảng 1
Phytase làm tăng đáng kể tất cả các tỷ lệ biến mất axit amin đỉnh điểm ở mức 4,67% (bảng 1) do phytase có khả năng thúc đẩy quá trình tiêu hóa protein bằng cách làm chậm sự hình thành các phức hợp protein – phytase nhị phân vốn khó tiêu hóa pepsin và hấp thụ axit amin. Phytase đã được chứng minh là có tác động tích cực đến việc kích hoạt bơm natri dọc theo ruột non ở gia cầm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đồng hấp thu axit amin và natri thông qua một số hệ thống vận chuyển phụ thuộc Na+.
Mi Lan
(Theo Poultryworld)