Tình hình chung
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, tình hình chăn nuôi duy trì ổn định trong tháng, chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển tốt, thị trường tiêu thụ ổn định. Công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được tăng cường, tình hình dịch bệnh cơ bản được kiểm soát.
Chăn nuôi trâu, bò: Ước tính tổng số trâu của cả nước thời điểm cuối tháng 2 năm 2025 đạt 2.085,6 nghìn con, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm trước do hiệu quả kinh tế không cao, diện tích chăn thả bị thu hẹp; tổng số bò của cả nước đạt 6.317,2 nghìn con, giảm 0,5%.
Chăn nuôi lợn: Tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 2 năm 2025 ước đạt 26.802,2 nghìn con, tăng 3,2% so với cùng thời điểm năm 2024.
Chăn nuôi gia cầm: Đàn gia cầm cả nước phát triển tốt nhờ kiểm soát được dịch bệnh. Các cơ sở chăn nuôi giữ ổn định quy mô, nguồn cung thịt và trứng gia cầm đáp ứng đầy đủ cho thị trường trong dịp Tết Nguyên đán. Ước tính, tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 2 đạt 574,5 triệu con, tăng 3,4% so với cùng thời điểm năm 2024.
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 2 năm 2025 ước đạt 32,7 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi 2 tháng đầu năm 2025 đạt 72,2 triệu USD, tăng 4% so với cùng kỳ năm 2024. Tuy nhiên, ước giá trị xuất khẩu 2 sản phẩm chăn nuôi chính giảm: sữa và sản phẩm sữa đạt 11,9 triệu USD, giảm 41,7%; xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 21,9 triệu USD, giảm 8,8%.
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi: Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 2 năm 2025 ước đạt 373,5 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 2 tháng đầu năm 2025 đạt 734,3 triệu USD, tăng 50,3% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 214 triệu USD, tăng 46,7%; nhập khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 323,9 triệu USD, tăng 40,5%.
Về thú y: Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến ngày 24/02/2025 hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cụ thể như sau:
– Dịch cúm gia cầm: Trong tháng 02 (tính đến ngày 24/02/2025), phát sinh 02 ổ dịch CGC tại tỉnh Long An và Tiền Giang; số gia cầm mắc bệnh là 2.316 con, số gia cầm chết và tiêu hủy là 2.900 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 06 ổ dịch CGC tại 04 tỉnh, thành phố; số gia cầm mắc bệnh là 17.887 con (tăng 2,21 lần so với cùng kỳ năm trước (CKNT), số gia cầm chết và tiêu hủy là 18.926 con (tăng 2,12 lần so với CKNT). Hiện nay, cả nước có 03 ổ dịch tại tỉnh Tuyên Quang, Long An và Tiền Giang chưa qua 21 ngày; số gia cầm mắc bệnh là 5.888 con, số gia cầm chết, hủy là 6.427 con.
– Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: Trong tháng 02 (tính đến ngày 24/02/2025), phát sinh 15 ổ dịch tại 12 huyện của 09 tỉnh, thành phố; số lợn mắc bệnh là 1.793 con, số lợn chết và tiêu hủy là 1.794 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 45 ổ dịch (giảm 66,7% so với CKNT) tại 18 tỉnh, thành phố; số lợn mắc bệnh là 4.331 con (tăng 10,1% so với CKNT), số lợn chết và tiêu hủy là 4.393 con (tăng 1,78% so với CKNT). Hiện nay, cả nước có 26 ổ dịch tại 17 huyện của 11 tỉnh, thành phố chưa qua 21 ngày; số lợn mắc bệnh là 4.002 con, số lợn chết, hủy là 3.999 con.
– Bệnh Lở mồm long móng (LMLM): Trong tháng 02 (tính đến ngày 24/02/2025), phát sinh 04 ổ dịch tại các tỉnh Lào Cai, Thanh Hoá và Kon Tum; số gia súc mắc bệnh là 138 con, số gia súc chết và tiêu hủy là 32 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước đã xảy ra 07 ổ dịch LMLM (giảm 65% so với CKNT) tại 05 tỉnh, thành phố; số gia súc mắc bệnh là 177 con (giảm 73,46% so với CKNT), số gia súc chết và tiêu hủy là 33 con (giảm 64,51% so với CKNT). Hiện nay, cả nước có 03 ổ dịch LMLM tại các tỉnh Lào Cai và Thanh Hoá chưa qua 21 ngày; số gia súc mắc bệnh là 97 con, số gia súc chết, hủy là 32 con.
– Bệnh Viêm da nổi cục (VDNC): Trong tháng 02 (tính đến ngày 24/02/2025), phát sinh 02 ổ dịch tại tỉnh Quảng Ngãi và Tiền Giang; số gia súc mắc bệnh là 06 con, số gia súc chết và tiêu hủy là 02 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 04 ổ dịch tại tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Tiền Giang (giảm 77,77% so với CKNT); số gia súc mắc bệnh là 08 con (giảm 89,47% so với CKNT), số gia súc chết và tiêu hủy là 04 con (giảm 81,81% so với CKNT). Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch tại tỉnh Tiền Giang chưa qua 21 ngày; số gia súc mắc bệnh là 02 con.
– Bệnh Tai xanh: Trong tháng 02 (tính đến ngày 24/02/2025), không phát sinh dịch bệnh Tai xanh. Từ đầu năm đến nay, cả nước không xảy ra ca bệnh Tai xanh nào.
Thị trường chăn nuôi
+ Thịt lợn hơi
Giá lợn hơi tiếp tục tăng khi nguồn cung đang hạn chế, bình quân cả nước đã lên đến 70.000 đồng/kg.
Tại thị trường phía Bắc, giá lợn hơi tăng lên một giá ở nhiều địa phương. Cụ thể, giá lợn hơi tại Hà Nội, Bắc Giang và Thái Bình lên 71.000 đồng/kg; Yên Bái và Ninh Bình 71.000 đồng/kg. Hiện tại, giá lợn hơi tại miền Bắc dao động từ 70.000 – 71.000 đồng/kg, trong đó Lào Cai và Nam Định 70.000 đồng/kg, thấp nhất khu vực.
Tại khu vực miền Trung – Tây nguyên, giá lợn hơi cũng ghi nhận đi lên ở hầu hết các tỉnh, thành. Thương lái tại khu vực này thu mua lợn hơi trong khoảng 70.000 – 72.000 đồng/kg. Trong đó, tỉnh Lâm Đồng là địa phương đạt mức giá thu mua 72.000 đồng/kg, cao nhất khu vực. Thấp hơn một giá là Đắk Lắk và Bình Thuận, cùng 71.000 đồng/kg.
Thị trường lợn hơi ở các tỉnh thành phía nam vẫn trên đà tăng phi mã, giá lợn hơi bình quân trong tháng ở mức 70.000 – 71.000 đồng/kg, tuy nhiên tính đến thời điểm những tuần cuối tháng, giá lợn hơi tại một số tỉnh thành đã chạm đỉnh mới với mức 72.000 đồng/kg ở Bến Tre. Giá lợn hơi tại hầu hết các tỉnh, thành phố lân cận cũng tăng trong xu hướng chung. Đây hiện là khu vực có giá lợn hơi cao nhất cả nước, bình quân tháng trong khoảng 70.000 – 71.000 đồng/kg.
Nhìn chung, thị trường lợn hơi hôm nay tiếp đà tăng nhanh trên cả nước. Theo khảo sát trên toàn quốc, giá lợn hơi đang được giao dịch trong khoảng 70.000 – 72.000 đồng/kg, bình quân tháng ở mức 70.000 đồng/kg.
+ Thịt gà
Nhu cầu tiêu thụ ảm đạm sau dịp Tết khiến thị trường gia cầm tại cả 3 miền không ghi nhận nhiều biến động mới về giá.
Tại miền Bắc, biên độ chênh lệch giá có xu hướng nới rộng hơn vào những tuần cuối tháng khi biểu gà xuất chuồng nhỉnh hơn so với thời điểm đầu tháng. Mặc dù nguồn cung gà trắng trên thị trường ở mức thấp nhưng vẫn đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường những ngày đầu năm âm lịch, giúp giá giao dịch phổ biến ở mức 35.000 – 38.000 đồng/kg. Đối với gà lông màu, giá ổn định ở mức quanh 36.000 đồng/kg (đối với gà lai CP nuôi 80 ngày và 43.000 – 45.000 đồng/kg đối với gà công ty nuôi dài ngày.
Tại miền Nam, lượng gà trắng tồn tại trại tương đối nhiều trong khi nhu cầu tiêu thụ có xu hướng chậm, giá gà trắng bình quân tháng 2 dao động từ 27.000 – 30.000 đồng/kg tại thị trường tự do. Đối với gà lông màu, giá gà Minh Dư dao động từ 46.000 – 48.000 đồng/kg, giá gà ta lai CP 80 ngày dao động từ 36.000 – 40.000 đồng/kg (giá mua buôn). Tại Đồng Nai giá gà công nghiệp giảm so với tháng trước, giao dịch ở mức 34.667 đồng/kg (-1833 đồng/kg), trái với xu hướng giảm giá gà công nghiệp, giá gà lông màu tại Đồng Nai những tuần cuối tháng tăng nhẹ, dao động 52.000 đồng/kg (+2.000 đồng/kg).
Thị trường xuất nhập khẩu
+ Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 2 năm 2025 ước đạt 32,7 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi 2 tháng đầu năm 2025 đạt 72,2 triệu USD, tăng 4% so với cùng kỳ năm 2024. Tuy nhiên, ước giá trị xuất khẩu 2 sản phẩm chăn nuôi chính giảm: sữa và sản phẩm sữa đạt 11,9 triệu USD, giảm 41,7%; xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 21,9 triệu USD, giảm 8,8%.
+ Xuất khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu: (đang cập nhật)
+ Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 2 năm 2025 ước đạt 373,5 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 2 tháng đầu năm 2025 đạt 734,3 triệu USD, tăng 50,3% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 214 triệu USD, tăng 46,7%; nhập khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 323,9 triệu USD, tăng 40,5%
– Giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu:
Giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 2 năm 2025 ước đạt 500 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 2 tháng đầu năm 2025 đạt 804,3 triệu USD, tăng 8,7% so với cùng kỳ năm 2024.
Nguồn nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chính là các thị trường Áchentina, Hoa Kỳ và Braxin với thị phần lần lượt là 39,9%, 16,9% và 11,5%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 1/2025 từ thị trường Áchentina tăng 21,9%, trong khi thị trường Hoa Kỳ giảm 30,9%, thị trường Braxin giảm 35,9%. Trong nhóm 15 thị trường nhập khẩu lớn nhất, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng mạnh nhất ở thị trường Đức với mức tăng 27,2% và giảm mạnh nhất ở thị trường Ấn Độ với mức giảm 54,7%.
– Ngô:
Khối lượng nhập khẩu ngô tháng 2 năm 2025 ước đạt 502,1 nghìn tấn với giá trị đạt 127,8 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 2 tháng đầu năm 2025 đạt 1,5 triệu tấn và 377,6 triệu USD, giảm 21,2% về khối lượng và giảm 22,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Giá ngô nhập khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2025 ước đạt 251,2 USD/tấn, giảm 1,5% so với cùng kỳ năm 2024.
Braxin là thị trường cung cấp ngô lớn nhất cho Việt Nam với thị phần chiếm 58,6%, theo sau là thị trường Áchentina với thị phần 39,3% và thị trường Lào với thị phần 1,4%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu ngô tháng 1/2025 từ thị trường Braxin giảm 20,5%, thị trường Lào giảm 58,8%, trong khi thị trường Áchentina tăng 14,7 lần.
– Đậu tương:
Khối lượng nhập khẩu đậu tương tháng 2 năm 2025 ước đạt 144,4 nghìn tấn với giá trị đạt 66,2 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 2 tháng đầu năm 2025 đạt 330,2 nghìn tấn và 152,1 triệu USD, giảm 2,7% về khối lượng và giảm 21,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Giá đậu tương nhập khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2025 ước đạt 460,5 USD/tấn, giảm 19,1% so với cùng kỳ năm 2024.
Việt Nam chủ yếu nhập khẩu đậu tương từ 2 thị trường Hoa Kỳ và Canađa với tỷ trọng giá trị nhập khẩu từ 2 thị trường này lần lượt là 94% và 5,4%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu đậu tương tháng 1/2025 từ thị trường Hoa Kỳ tăng 9,9%, trong khi thị trường Canađa giảm 36,7%.
– Lúa mì:
Khối lượng nhập khẩu lúa mì tháng 2 năm 2025 ước đạt 707,5 nghìn tấn với giá trị đạt 190 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 2 tháng đầu năm 2025 đạt 1,1 triệu tấn và 297,5 triệu USD, tăng 7,1% về khối lượng và tăng 2,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Giá lúa mì nhập khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2025 ước đạt 267,7 USD/tấn, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm 2024.
Nguồn cung cấp lúa mì chính của Việt Nam là từ các thị trường Braxin, Ôxtrâylia, Canađa và Nga với thị phần lần lượt là 50,5%, 16%, 15,5% và 14,4%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu lúa mì tháng 1/2025 từ thị trường Braxin tăng 50,5%, thị trường Canađa tăng 20,2 lần và thị trường Nga tăng 3,3 lần, trong khi thị trường Ôxtrâylia giảm 75,2%.
Tổng hợp: Channuoivietnam.com