Tình hình chung
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong tháng 11, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản diễn ra trong điều kiện thuận lợi, kết quả sản xuất đạt được mức khá. Tình hình chăn nuôi trâu, bò trong tháng không có biến động lớn; chăn nuôi lợn có kết quả tích cực mặc dù vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn do giá lợn hơi thấp, chi phí phòng dịch tăng cao, giá thức ăn chăn nuôi giảm chưa đáng kể; nhiều cơ sở chăn nuôi gia cầm đã mở rộng quy mô khi hợp tác nuôi gia công cho các công ty trong và ngoài nước. Ước tính tổng đàn lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 11 năm 2023 tăng khoảng 4%; đàn gia cầm tăng khoảng 3% so với cùng thời điểm năm 2022. Tình hình cụ thể như sau:
– Chăn nuôi trâu, bò: Tình hình chăn nuôi trâu, bò trong tháng không biến động lớn, chăn nuôi châu vẫn tiếp tục xu hướng giảm ở nhiều tỉnh do diện tích đất chăn thả bị thu hẹp, sử dụng vào các lĩnh vực sản xuất khác. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê ước tính tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 11 năm 2023 giảm khoảng 1%; tổng số bò tăng khoảng 0,6% so với cùng thời điểm năm 2022.
– Chăn nuôi lợn: Trong tháng 11, giá thịt lợn hơi diễn biến tăng, giảm trái chiều tùy từng thời điểm. Hiện nay, giá lợn hơi thấp, chi phí phòng dịch không giảm, giá thức ăn chăn nuôi giảm chưa đáng kể nên các cơ sở chăn nuôi gặp khó khăn. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 11 năm 2023 tăng khoảng 4,0% so với cùng thời điểm năm 2022.
– Chăn nuôi gia cầm: Tổng đàn gia cầm vẫn giữ ở mức ổn định, công tác tiêm phòng được quan tâm nên không xảy ra dịch bệnh trên diện rộng. Nhiều cơ sở đã mở rộng quy mô chăn nuôi khi hợp tác nuôi gia công cho các công ty trong và ngoài nước. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 11 năm 2023 tăng khoảng 3,0% so với cùng thời điểm năm 2022.
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 11 năm 2023 ước đạt 41 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 11 tháng đầu năm 2023 đạt 453 triệu USD, tăng 23,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 123 triệu USD, tăng 25,8%; xuất khẩu thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 137 triệu USD, tăng 36,2%.
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 11 năm 2023 ước đạt 353 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 11 tháng đầu năm 2023 đạt 3,23 tỷ USD, giảm 4,8% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa ước đạt 1,08 tỷ USD, giảm 6,6%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 1,37 tỷ USD, giảm 0,6%.
– Thú y: Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến cuối tháng 11, tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cụ thể như sau:
a) Bệnh Cúm gia cầm (CGC): Trong tháng 11/2023, có báo cáo phát sinh 01 ổ dịch tại tỉnh Quảng Nam. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 20 ổ dịch CGC chủng A/H5N1 tại 11 tỉnh, thành phố: Cao Bằng, Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Tiền Giang, Sóc Trăng, Long An, Bình Dương; số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 36.606 con. Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch CGC chủng A/H5N1 tại tỉnh Quảng Nam chưa qua 21 ngày. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 58,33%, số gia cầm phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 63,51%.
b) Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): Trong tháng 11/2023, có báo cáo phát sinh 61 ổ dịch tại 19 tỉnh, thành phố. Tổng số lợn bị tiêu hủy là 1.448 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 582 ổ dịch tại 44 tỉnh, thành phố; tổng số lợn bị tiêu hủy là 24.549 con. Hiện nay, cả nước có 125 ổ dịch thuộc 67 huyện của 27 tỉnh chưa qua 21 ngày. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 57,61%; số lợn phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 62,02%.
c) Bệnh Lở mồm long móng (LMLM): Trong tháng 11/2023, có báo cáo phát sinh 01 ổ dịch LMLM tại tỉnh Lạng Sơn; số trâu, bò mắc bệnh là 82 con, số chết và tiêu hủy là 07 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 26 ổ dịch tại 12 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 876 con, số gia súc tiêu hủy là 34 con. Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch LMLM tại tỉnh Lạng Sơn chưa qua 21 ngày.
d) Bệnh Tai xanh: Trong tháng 11/2023, không có báo cáo phát sinh ổ dịch bệnh Tai xanh tại các địa phương. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 05 ổ dịch tại tỉnh Cao Bằng và Quảng Bình; số lợn mắc bệnh là 96 con, số lợn chết và tiêu hủy là 549 con. Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch bệnh Tai Xanh tại tỉnh Quảng Bình chưa qua 21 ngày.
e) Bệnh Viêm da nổi cục (VDNC): Trong tháng 11/2023, cả nước phát sinh 04 ổ dịch tại các tỉnh Đắk Lắk và Cao Bằng. Số gia súc mắc bệnh là 08 con, số gia súc chết và tiêu hủy là 04 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 110 ổ dịch tại 15 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 492 con, số gia súc tiêu hủy là 104 con. Hiện nay, cả nước có 04 ổ dịch tại các tỉnh Cao Bằng và Đắk Lắk chưa qua 21 ngày. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 56,34%; số trâu, bò phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 77,24%.
Thị trường chăn nuôi
Trên thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 12/2023 ở Chicago, Mỹ biến động giảm với mức giảm 3,45 UScent/lb xuống mức 68,275 UScent/lb. Giá thịt lợn giảm do nguồn cung dồi dào.
Tại thị trường trong nước, trong tháng 11/2023, giá lợn hơi trên cả nước biến động giảm. Tại khu vực miền Bắc, giá lợn hơi giảm 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 51.000 – 52.000 đồng/kg. Cụ thể, tại các tỉnh Lào Cai, Nam Định, Thái Nguyên, Thái Bình và Ninh Bình có cùng chung mức giá 51.000 đồng/kg. Tại Bắc Giang, lợn hơi đang được thu mua ở mức 52.000 đồng/kg.
Giá lợn hơi thị trường khu vực miền Trung, Tây Nguyên giảm khoảng 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 49.000 – 51.000 đồng/kg. Cụ thể, giá lợn hơi tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Bình Định, Lâm Đồng và Ninh Thuận trong khoảng 49.000 – 50.000 đồng/kg. Tại Thanh Hóa, giá lợn hơi đang giao dịch ở mức 51.000 đồng/kg.
Tại miền Nam, giá lợn hơi giảm khoảng 1.000 – 2.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 48.000 – 53.000 đồng/kg. Cụ thể, tại Cần Thơ và Vĩnh Long giá lần lượt điều chỉnh giảm 1.000 đồng/kg và 2.000 đồng/kg, về mức 50.000 đồng/kg. Mức giao dịch thấp nhất khu vực là 48.000 đồng/kg, được ghi nhận tại Kiên Giang. Khoảng giá được ghi nhận tại các địa phương còn lại là 49.000 – 53.000 đồng/kg.
Giá thu mua gà tại trại biến động giảm tại các vùng miền trong tháng 11/2023. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày tại miền Bắc giảm 2.000 đồng/kg, xuống mức 60.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày tại miền Trung ở mức 60.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày tại miền Nam giảm 4.000 đồng/kg và hiện ở mức 37.000 – 38.000 đồng/kg.
Giá trứng gà tại miền Bắc tăng 100 đồng/quả, lên mức 2.100 đồng/quả. Giá trứng gà tại miền Trung giảm 200 đồng/quả, xuống mức 2.100 – 2.300 đồng/quả. Giá trứng gà tại vùng Đông Nam Bộ hiện là 2.100 – 2.300 đồng/quả. Giá trứng gà tại vùng Tây Nam Bộ giữ mức 2.000 – 2.200 đồng/quả.
Thị trường xuất khẩu
+ Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 11 năm 2023 ước đạt 41 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 11 tháng đầu năm 2023 đạt 453 triệu USD, tăng 23,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 123 triệu USD, tăng 25,8%; xuất khẩu thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 137 triệu USD, tăng 36,2%.
+ Xuất khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu: (đang cập nhật)
Thị trường nhập khẩu
+ Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 11 năm 2023 ước đạt 353 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 11 tháng đầu năm 2023 đạt 3,23 tỷ USD, giảm 4,8% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa ước đạt 1,08 tỷ USD, giảm 6,6%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 1,37 tỷ USD, giảm 0,6%.
+ Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu:
Giá trị nhập khẩu mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 11 năm 2023 ước đạt 420 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 11 tháng đầu năm 2023 đạt 4,69 tỷ USD, giảm 6,4% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 10 tháng đầu năm 2023, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường: Áchentina (chiếm 28,2% thị phần), Braxin (19,1%) và Hoa Kỳ (14,1%). So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ Áchentina giảm 10,1%, Braxin giảm 11,7%. Ngược lại, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu từ thị trường Hoa Kỳ tăng 3,9%.
+ Nhập khẩu đậu tương:
Khối lượng nhập khẩu đậu tương tháng 11 năm 2023 ước đạt 80 nghìn tấn với giá trị ước đạt 54 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 11 tháng đầu năm 2023 đạt 1,69 triệu tấn và 1,07 tỷ USD, tăng 3,4% về khối lượng nhưng giảm 5,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022. Giá đậu tương nhập khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2023 ước đạt 635 USD/tấn, giảm 8,8% so với cùng kỳ năm 2022.
Braxin, Hoa Kỳ và Canađa là 3 thị trường cung cấp đậu tương chính cho Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2023 với tổng thị phần là 95,6%. So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu đậu tương của Việt Nam từ thị trường Hoa Kỳ tăng 16,3%; Canađa tăng 12,3%. Ngược lại, nhập khẩu đậu tương từ thị trường Braxin giảm 18%.
+ Nhập khẩu lúa mì:
Ước nhập khẩu lúa mì tháng 11 năm 2023 đạt 350 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu đạt 103 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 11 tháng đầu năm 2023 đạt 4,09 triệu tấn và gần 1,4 tỷ USD, tăng 10,7% về khối lượng nhưng giảm 2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022. Giá lúa mì nhập khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2023 ước đạt 341 USD/tấn, giảm 11,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 10 tháng đầu năm 2023, nguồn nhập khẩu lúa mì chính của Việt Nam là từ các thị trường: Ôxtrâylia (chiếm tỷ trọng 68,2%), Hoa Kỳ (10,8%) và Braxin (7,4%). So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu lúa mì của Việt Nam từ Hoa Kỳ tăng 22,2% trong khi nhập khẩu từ Braxin giảm 14,9%, Ôxtrâylia giảm 8,3%.
+ Nhập khẩu ngô:
Khối lượng ngô nhập khẩu tháng 11 năm 2023 ước đạt 1,1 triệu tấn với giá trị đạt 286 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 11 tháng đầu năm 2023 đạt 8,85 triệu tấn và 2,65 tỷ USD, tăng 4,7% về khối lượng nhưng giảm 10,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022. Giá ngô nhập khẩu bình quân 11 tháng đầu năm 2023 ước đạt 299 USD/tấn, giảm 14,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 10 tháng đầu năm 2023, nguồn nhập khẩu ngô của Việt Nam chủ yếu từ 3 thị trường Braxin, Áchentina và Ấn Độ với tổng thị phần chiếm 90,9%. So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu ngô từ Braxin gấp 4,7 lần, Ấn Độ tăng 63,5%, trong khi nhập khẩu từ Áchentina giảm 50%.
Nguồn: channuoivietnam.com