(Người Chăn Nuôi) – Phụ gia tế bào nấm men vẫn mang lại nhiều lợi ích cho vật nuôi còn non, nhưng tiềm năng của các sản phẩm này vẫn chưa được khai phá hết, trong đó có nấm men S.boulardii mặc dù được phát hiện từ nhiều thập kỷ trước.
Năm 1920, nhà vi sinh vật học người Pháp Henri Boulard đi khắp Đông Nam Á nghiên cứu về một loại nấm men bền nhiệt phù hợp cho nuôi heo. Các đợt bùng phát Dịch tả heo xuất hiện và ông phát hiện người dân địa phương dùng vỏ quả vải hay quả măng cụt trị bệnh tả heo như phương thuốc dân gian. Sau đó, ông phân lập một chủng nấm men mới từ các loại trái cây nhiệt đới này. Năm 1923, nấm men Saccharomyces cerevisiae var. bouldardii chính thức xuất hiện.
Sau nhiều năm, S.boulardii được nghiên cứu rộng rãi và khám phá ra nhiều đặc tính hơn. Mặc dù hệ hen của S.boulardii giống các chủng S.cerevisiae nói chung tới 99%, nhưng chúng vẫn khác biệt rõ ràng về nhiệt độ tăng trưởng tối ưu (37°C và 30°C) và khả năng chịu axit (pH 2 và 6), nhờ đó S.boulardii là probiotic tiềm năng. Các nghiên cứu bổ sung đã ghi nhận hiệu lực kháng độc, kháng khuẩn, kháng viêm và điều chỉnh miễn dịch của S.boulardii.
Vách tế bào nấm men từ S.boulardii
S.boulardii là một probiotic hiệu quả trong chăn nuôi cũng như thực phẩm chức năng. Nhờ có sẵn khả năng sống và phát triển tự nhiên trong hệ thống tiêu hóa, nên S.boulardii được sử dụng như một phụ gia thức ăn probiotic. Khi tiếp cận loại probiotic này, người ta phát hiện nhiều điểm bất lợi nhưng cũng không thể phủ nhận những lợi ích rõ ràng của chúng. Một khi đã sử dụng các sản phẩm nấm men sống, cũng không thể kỳ vọng hoàn toàn vào hiệu lực điều chỉnh miễn dịch của nó. Đây chính là các lớp xơ trong phân nhánh -1,3-1,6 glucan được nhận dạng bởi các thụ thể nhận biết khuôn mẫu của đại thực bào, kích thích thực bào, sản sinh kháng thể globulin miễn dịch, và cải thiện khả năng trình diện kháng nguyên.
Lớp xơ trong của tế bào nấm men cần phải được lộ ra mới tăng được hiệu lực lên hệ miễn dịch của vật chủ. S.boulardii có vách tế bào bên trong dày hơn nên giàu hàm lượng -1,3-1,6-glucan hơn so với chủng S.cerevisia thông thường. Cũng như vậy, các khuôn mẫu phân tử của polysacchariders của nấm men S.boulardii phức tạp hơn, cho phép cải thiện khả năng điều chỉnh miễn dịch và kháng khuẩn. Điều này chứng tỏ tiềm năng của S.boulardii như một sản phẩm vách tế bào nấm men. Nấm men S.boulardii có thể dễ dàng tìm thấy trong dược phẩm dưới dạng sản phẩm probiotic và được đánh giá cao nhất về hiệu quả xử lý các bệnh rối loạn tiêu hóa như hội chứng ruột kích thích (IBS), viêm ruột (IBD) và tiêu chảy.
Những hạn chế
Khẳng định được vị trí trên thị trường probiotics, nấm men S.boulardii lại bị lãng quên trên các thị trường khác. Nguyên nhân do nấm men S.boulardii ít cồn và nucleotide hơn so với người anh em của nó là S.cerevisiae. Vách tế bào nấm men dùng phổ biến như phụ phẩm cho ngành mỹ phẩm, hương liệu và nhiên liệu sinh học, nhưng phụ phẩm tế bào nấm men từ S.boulardii lại cực kỳ khó kiếm. Thậm chí nếu phát hiện ra sản phẩm như vậy, thì cũng cần phải đặc biệt chú ý đến phương pháp chiết xuất vì nó sẽ ảnh hưởng lớn đến chất lượng khi làm phụ gia thức ăn.
Có thể mở vách tế bào nấm men bằng phương pháp tự phân hoặc thủy phân – phương pháp chủ yếu được sử dụng để chiết xuất nấm men và nấm men bất hoạt. Thủy phân bằng enzym protease ngoại sinh tương đối dễ dàng bởi nó có thể đi qua vách tế bào nấm men hiệu quả hơn. Tuy nhiên, lớp ngoài của vách tế bào nấm men cũng bị phá hủy suốt quy trình này, làm thất thoát một lượng đường mannan oligosacchride (MOS) đáng kể. Nếu chỉ quan tâm đến chất lượng để làm phụ gia thức ăn, quy trình tự phân sẽ tạo ra một vách tế bào nấm men mang đặc tính kháng khuẩn cao hơn. Nhìn chung, một sản phẩm vách tế bào nấm men S.boulardii được sản xuất bằng quy trình tự phân sẽ tốt hơn để sử dụng cho vật nuôi còn non, nhưng cực kỳ khó tìm dù sản phẩm đó thực sự tồn tại.
Sản phẩm vách tế bào nấm men lý tưởng
Pathway Intermediates là Công ty hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu dinh dưỡng vật nuôi. Với hơn 30 năm kinh nghiệm về lên men, Công ty này đã sản xuất thành công sản phẩm vách tế bào nấm men YeaMune-UP bằng qua quy trình tự phân độc quyền các chủng S.boulardii. Ngạc nhiên là, không có gì được chiết xuất từ nấm men suốt toàn bộ quy trình sản xuất, nên YeaMune độc đáo bởi không bị coi là phụ phẩm. Các thử nghiệm gần đây trên heo con và gia cầm đã chứng tỏ hiệu lực rõ ràng của sản phẩm này đối với sức khỏe đường ruột và cải thiện hiệu suất (Hình 1 và 2). Ở cả 2 thử nghiệm, phụ gia YeaMune-UP tăng đáng kể biểu hiện gen protein liên kết chặt (claudin, occludin). Kết quả, do sức khỏe đường ruột tốt hơn nhờ protein liên kết chặt, tăng trọng của vật nuôi đã được cải thiện lần lượt 3,8% và 2% ở heo con và gia cầm mà không ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng thức ăn. Vật nuôi còn non rất yếu ớt, đòi hỏi đặc biệt chú ý đến dinh dưỡng và miễn dịch. Sau nhiều năm, phụ gia tế bào nấm men vẫn mang lại nhiều lợi ích cho vật nuôi còn non, nhưng tiềm năng của các sản phẩm này vẫn chưa được khai phá hết. Trong tương lai, các chuyên gia dinh dưỡng kỳ vọng sản phẩm vách tế bào nấm men S.boulardii được sản xuất thông qua quy trình tự phân.
Vũ Đức
(Theo PigProgress)