Tình hình chung (đang cập nhật)
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, sáu tháng đầu năm 2025, sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định. Chăn nuôi lợn trong bối cảnh dịch tả lợn Châu Phi diễn biến phức tạp, chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định nhờ chi phí đầu tư thấp, tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có, mặt khác nhu cầu tiêu dùng thịt, trứng gia cầm trên thị trường ổn định, giá bán sản phẩm duy trì ở mức có lợi cho người chăn nuôi. Ước tính đến cuối tháng 7/2025, đàn lợn của cả nước tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, đàn gia cầm tăng 3,9%, trong khi tổng số trâu giảm 4,1%, đàn bò giảm 0,8%. Trong tháng Bảy, bệnh dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp, cả nước phát sinh 571 ổ dịch với số lợn chết và tiêu hủy trong tháng là gần 73,5 nghìn con. Bệnh dịch chủ yếu bùng phát tại các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, tái phát từ ổ dịch cũ. Hiện nay các địa phương đang tập trung triển khai quyết liệt các biện pháp nhằm phòng, chống và kiểm soát hiệu quả dịch bệnh. Cụ thể:
– Chăn nuôi lợn:
Trong tháng Bảy, bệnh dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp, cả nước phát sinh 571 ổ dịch với số lợn chết và tiêu hủy trong tháng là gần 73,5 nghìn con. Bệnh dịch chủ yếu bùng phát tại các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, tái phát từ ổ dịch cũ. Hiện nay các địa phương đang tập trung triển khai quyết liệt các biện pháp nhằm phòng, chống và kiểm soát hiệu quả dịch bệnh.
Theo Cục Thống kê – Bộ Tài chính, tính đến cuối tháng 7/2025, tổng đàn lợn cả nước tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số tỉnh/thành phố có mức tăng khá: Tây Ninh tăng 29,4% so với cùng kỳ năm trước; Sơn La tăng 11%; Lào Cai tăng 7,9%; Lâm Đồng tăng 3,5%; Tuyên Quang tăng 1,8%; Tp Hồ Chí Minh tăng 1,4%. Một số tỉnh có số lượng lợn giảm do ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi là: Khánh Hòa giảm 14,7%; Phú Thọ giảm 4,8%; Hà Tĩnh giảm 2,6%; Hà Nội giảm 1,9%; Thái Nguyên giảm 1,2%.
– Chăn nuôi gia cầm:
Tổng đàn gia cầm cả nước tháng 7 ước tính tăng 3,9% so cùng kỳ năm trước (đàn gà tăng khoảng 4%), trong đó một số tỉnh/thành phố đàn gia cầm tăng mạnh: Đồng Tháp tăng 8,4%2; TP. Hồ Chí Minh tăng 7,3%; Nghệ An tăng 7,1%3; Bắc Ninh tăng 6,6%.
Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định nhờ chi phí đầu tư thấp, tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có, mặt khác nhu cầu tiêu dùng thịt, trứng gia cầm trên thị trường ổn định. Công tác tiêm phòng dịch bệnh được triển khai đầy đủ, giúp người nuôi yên tâm mở rộng quy mô.
– Chăn nuôi trâu, bò:
Tổng đàn trâu cả nước ước tính đến cuối tháng 7 giảm 4,1% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do hiệu quả kinh tế không cao, trong đó một số tỉnh số lượng trâu giảm nhiều: Thanh Hóa giảm 15,2%; Lạng Sơn giảm 14,3%; Thái Nguyên giảm 12,8%; Nghệ An giảm 5,8%.
Tổng đàn bò cả nước cuối tháng 7 ước tính giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số tỉnh có đàn bò giảm nhiều: Thanh Hóa giảm 12%; Hà Tĩnh giảm 5,6%; Phú Thọ giảm 4,8%; Vĩnh Long giảm 4%, nguyên nhân chủ yếu do thiếu hụt nguồn thức ăn thô xanh, chi phí đầu vào tăng cao, trong khi giá cả đầu ra không ổn định, khiến người chăn nuôi phải thu hẹp quy mô hoặc chuyển đổi hình thức sản xuất. Tuy nhiên, có một số địa phương nhờ tận dụng tốt thị trường tiêu thụ cùng với việc đầu tư trang trại quy mô lớn, ứng dụng kỹ thuật tiên tiến đã có mức tăng so cùng kỳ như: Tuyên Quang tăng 5,2%; Nghệ An tăng 3,4%; Gia Lai tăng 3,1%.
– Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi: Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 7 năm 2025 ước đạt 60 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi 7 tháng đầu năm 2025 đạt 339,2 triệu USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 60,9 triệu USD, giảm 17%; xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 118,4 triệu USD, tăng 30,5%.
– Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi: Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 7 năm 2025 ước đạt 397,5 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 7 tháng đầu năm 2025 đạt 2,55 tỷ USD, tăng 22,8% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 868,6 triệu USD, tăng 36,6%; nhập khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 1,04 tỷ USD, tăng 12,3%.
– Giá trị nhập khẩu nguyên liệu TACN: Giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 7 năm 2025 ước đạt 320 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 7 tháng đầu năm 2025 đạt 2,65 tỷ USD, giảm 7,9% so với cùng kỳ năm 2024.
Nguồn nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chính là các thị trường Áchentina, Hoa Kỳ và Braxin với thị phần lần lượt là 40,3%, 17% và 13%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 6 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Áchentina tăng 30,5%, thị trường Hoa Kỳ giảm 32,4%, thị trường Braxin giảm 18,8%. Trong nhóm 15 thị trường nhập khẩu lớn nhất, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng mạnh nhất ở thị trường Tây Ban Nha với mức tăng 40,8% và giảm mạnh nhất ở thị trường Ôxtrâylia với mức giảm 34%.
– Về thú y: Theo Cục Chăn nuôi và Thú y, tính đến ngày 30/7/2025 tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm như sau:
(1) Bệnh Cúm gia cầm: Trong tháng 7, phát sinh 1 ổ dịch CGC A/H5N1; số gia cầm mắc bệnh là 3.500 con, số chết và tiêu hủy là 3.500 con. So sánh với tháng 6 số gia cầm tiêu hủy tăng 2.266 con tương đương 2,83 lần.
Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 07 ổ dịch CGC A/H5N1; số gia cầm tiêu hủy là 34.553 con. So sánh với cùng kỳ năm 2024 số ổ dịch tăng 05 ổ dịch, số gia cầm bị tiêu hủy tăng 20.795 con tương đương 2,51 lần. Hiện nay, có 01 ổ dịch CGC A/H5N1 tại tỉnh Nghệ An chưa qua 21 ngày.
(2) Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi: Trong tháng 7, phát sinh 571 ổ dịch tại 29/37 tỉnh, thành phố; số chết và tiêu hủy là 73.488 con. So sánh với tháng 6, số ổ dịch tăng 347 ổ dịch tương đương với 2,54 lần, số lợn chết tiêu hủy tăng 64.652 tương đương 8,42 lần.
Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 978 ổ dịch tại 724 xã thuộc 33/34 tỉnh thành phố; số lợn chết và tiêu hủy là 102.755 con. So sánh cùng kỳ năm 2024, số lợn chết và tiêu hủy tăng 35.738 con tương đương 53,32%. Hiện nay, cả nước có 544 ổ dịch tại 30/34 tỉnh, thành phố chưa qua 21 ngày;
(3) Bệnh Lở mồm long móng (LMLM): Trong tháng 7, phát sinh 01 ổ dịch Lở mồm long móng tại tỉnh Đăk Lăk; số gia súc mắc bệnh là 57 con.
Từ đầu năm đến nay, cả nước đã xảy ra 12 ổ dịch LMLM tại 08/34 tỉnh, thành phố; số gia súc mắc bệnh là 315 con, số gia súc chết và tiêu hủy là 36 con. So sánh với cùng kỳ năm 2024, giảm 35 ổ dịch tương đương 74,46%, số gia súc mắc bệnh giảm 1.171 con tương đương 78,8%, số tiêu hủy giảm 89 con tương đương 71,2%. Hiện nay, cả nước có 0 ổ dịch LMLM tại tỉnh Đăk Lăk chưa qua 21 ngày.
(4) Bệnh Tai xanh: Trong tháng 7, không phát sinh dịch bệnh Tai xanh. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 01 ổ dịch bệnh Tai xanh.
(5) Bệnh Viêm da nổi cục (VDNC): Trong tháng 7, phát sinh 02 ổ dịch tại 02 tỉnh Đăk Lăk và Đồng Tháp; số gia súc mắc bệnh là 04 con, số gia súc chết và tiêu hủy là 02 con. So sánh với tháng 6 số ổ dịch giảm 12 ổ dịch tương đương 85,71%, số mắc bệnh giảm 91,11%.
Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 42 ổ dịch tại 08/34 tỉnh số trâu, bò mắc bệnh là 97 con, số tiêu hủy là 37 con. So với cùng kỳ năm 2024, số ổ dịch giảm 56 ổ dịch tương đương 57,14%, số mắc bệnh giảm 443 con tương đương 82,03%, số chết và tiêu hủy giảm 91 con tương đương 71,09%. Hiện nay, cả nước có 02 ổ dịch tại 02 tỉnh Đăk Lăk và Đồng Tháp chưa qua 21 ngày.
Thị trường chăn nuôi
Giá thu mua lợn hơi trong nước biến động giảm trong tháng 7/2025. Cụ thể, giá lợn hơi tại miền Bắc giảm 6.600 đồng/kg xuống còn 60.000 – 63.000 đồng/kg. Giá lợn hơi miền Trung – Tây Nguyên giảm 7.700 đồng/kg, dao động trong khoảng 58.000 – 63.000 đồng/kg. Giá lợn hơi miền Nam giảm 7.400 đồng/kg xuống còn 61.000 – 64.000 đồng/kg. Giá thu mua lợn hơi trong nước có xu hướng giảm do ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi khiến tiêu thụ thịt lợn giảm.
Giá thu mua gà thịt lông màu biến động tăng tại cả ba miền. Giá gà thịt lông màu tại miền Bắc tăng 1.000 đồng/kg lên 53.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu tại miền Trung tăng 2.500 đồng/kg lên mức 53.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu tại miền Nam tăng 5.500 đồng/kg lên 59.000 đồng/kg. Giá gà tăng do nhu cầu tiêu dùng tăng.
Giá gà công nghiệp biến động trái chiều tại ba miền. Giá gà công nghiệp tại miền Bắc giảm 1.000 đồng/kg xuống còn 23.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp tại miền Trung tăng 7.000 đồng/kg, hiện ở mức 32.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp tại miền Nam tăng 8.000 đồng/kg lên mức 33.000 đồng/kg.
Giá thu mua trứng gà biến động tăng tại cả ba miền. Giá trứng gà miền Bắc tăng 290 đồng/quả lên 2.620 đồng/quả. Giá trứng gà miền Trung tăng 240 đồng/quả lên 2.360 đồng/quả. Giá trứng gà miền Nam tăng 300 đồng/quả lên 2.280 đồng/quả. Giá trứng tăng do sản lượng trứng giảm trong khi nhu cầu tăng cao.
Trong tháng 7/2025, giá thịt lợn kỳ hạn tháng 8/2025 giao dịch trên sàn CME biến động giảm nhẹ với mức giảm 1,025 US cent/lb xuống còn 108,525 US cent/lb. Giá thịt lợn giảm do lo ngại rằng Mexico, nước nhập khẩu thịt lợn lớn nhất, sẽ áp dụng thuế quan trả đũa đối với thịt lợn Mỹ vào tháng tới.
Trong tháng 7/2025, giá bò sống kỳ hạn tháng 8/2025 giao dịch trên sàn CME tăng 15,85 US cent/lb lên 229,725 US cent/lb. Giá bò sống tăng do báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ cho thấy số lượng bò giảm 2% so với cùng kỳ năm trước.
Thị trường xuất nhập khẩu
+ Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 7 năm 2025 ước đạt 60 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi 7 tháng đầu năm 2025 đạt 339,2 triệu USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 60,9 triệu USD, giảm 17%; xuất khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 118,4 triệu USD, tăng 30,5%.
+ Xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu:
+ Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 7 năm 2025 ước đạt 397,5 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 7 tháng đầu năm 2025 đạt 2,55 tỷ USD, tăng 22,8% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 868,6 triệu USD, tăng 36,6%; nhập khẩu thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 1,04 tỷ USD, tăng 12,3%.
+ Nhập khẩu sữa vả sản phẩm từ sữa:
+ Nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu:
Giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 7 năm 2025 ước đạt 320 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 7 tháng đầu năm 2025 đạt 2,65 tỷ USD, giảm 7,9% so với cùng kỳ năm 2024.
Nguồn nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chính là các thị trường Áchentina, Hoa Kỳ và Braxin với thị phần lần lượt là 40,3%, 17% và 13%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 6 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Áchentina tăng 30,5%, thị trường Hoa Kỳ giảm 32,4%, thị trường Braxin giảm 18,8%. Trong nhóm 15 thị trường nhập khẩu lớn nhất, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng mạnh nhất ở thị trường Tây Ban Nha với mức tăng 40,8% và giảm mạnh nhất ở thị trường Ôxtrâylia với mức giảm 34%.
– Nhập khẩu ngô:
Khối lượng nhập khẩu ngô tháng 7 năm 2025 ước đạt 850 nghìn tấn với giá trị đạt 225 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 7 tháng đầu năm 2025 đạt 5,3 triệu tấn và 1,38 tỷ USD, giảm 7,8% về khối lượng và giảm 3,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Giá ngô nhập khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2025 ước đạt 260,2 USD/tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2024.
Áchentina và Braxin là 2 thị trường cung cấp ngô chính cho Việt Nam với thị phần lần lượt là 53% và 21,7%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu ngô 6 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Áchentina giảm 1,1% và thị trường Braxin giảm 34,7%.
– Nhập khẩu đậu tương:
Khối lượng nhập khẩu đậu tương tháng 7 năm 2025 ước đạt 200 nghìn tấn với giá trị đạt 94,7 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 7 tháng đầu năm 2025 đạt 1,4 triệu tấn và 652 triệu USD, tăng 8,1% về khối lượng nhưng giảm 5,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Giá đậu tương nhập khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2025 ước đạt 458,7 USD/tấn, giảm 12,4% so với cùng kỳ năm 2024.
Việt Nam chủ yếu nhập khẩu đậu tương từ 2 thị trường Braxin và Hoa Kỳ với tỷ trọng giá trị nhập khẩu từ 2 thị trường này lần lượt là 47,1% và 40,7%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu đậu tương 6 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Braxin giảm 12,5% trong khi thị trường Hoa Kỳ tăng 9%.
– Nhập khẩu lúa mì:
Khối lượng nhập khẩu lúa mì tháng 7 năm 2025 ước đạt 200 nghìn tấn với giá trị đạt 40,6 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 7 tháng đầu năm 2025 đạt 3,3 triệu tấn và 857,8 triệu USD, giảm 4,6% về khối lượng và giảm 9,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Giá lúa mì nhập khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2025 ước đạt 262,8 USD/tấn, giảm 5,2% so với cùng kỳ năm 2024.
Nguồn cung cấp lúa mì chính của Việt Nam là từ các thị trường Braxin, Ôxtrâylia, Hoa Kỳ, và Canađa với thị phần lần lượt là 31,1%, 24,9%, 12,8% và 9,5%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị nhập khẩu lúa mì 6 tháng đầu năm 2025 từ thị trường Braxin giảm 11,5%, trong khi thị trường Ôxtrâylia tăng 1,2%, thị trường Hoa Kỳ tăng 40,8%, và thị trường Canađa tăng 48,5%.
Nguồn: channuoivietnam.com