Tình hình chung
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tháng 7 nhìn chung diễn ra trong điều kiện thuận lợi. Chăn nuôi lợn khả quan do giá thịt lợn hơi trong tháng có xu hướng tăng nhẹ và giữ ổn định. Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 7 tăng khoảng 2,8% so với cùng thời điểm năm 2022; tổng số gia cầm tăng khoảng 2,3%.
Tin liên quan:
Tình hình chăn nuôi cả nước tháng 6/2023
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 7 năm 2023 ước đạt 45 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 7 tháng đầu năm 2023 đạt 276 triệu USD, tăng 27,4% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 76 triệu USD, tăng 18,7%; xuất khẩu thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 80 triệu USD, tăng 36,5%
Trong tháng, tình hình chăn nuôi trâu, bò cả nước phát triển tương đối ổn định, dịch bệnh được kiểm soát. Chăn nuôi lợn khả quan do giá thịt lợn hơi trong tháng có xu hướng tăng nhẹ và giữ ổn định, đây là động lực để các cơ sở chăn nuôi đẩy mạnh tái đàn, đáp ứng nhu cầu hiện tại và chuẩn bị cho nguồn cung các dịp lễ, Tết sắp tới.
Chăn nuôi trâu, bò:
Tình hình đàn trâu, bò cả nước trong tháng phát triển tương đối ổn định. Dịch viêm da nổi cục đã được kiểm soát tốt nhưng vẫn xảy ra rải rác tại một số địa phương. Theo Tổng cục Thống kê ước tính tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Bảy năm 2023 giảm khoảng 1,8%; tổng số bò tăng khoảng 1,0% so với cùng thời điểm năm 2022.
Tình hình đàn trâu, bò cả nước trong tháng 7 – 2023 phát triển tương đối ổn định. Ảnh: ST
Chăn nuôi lợn:
Giá thịt lợn hơi trong tháng Bảy có xu hướng tăng nhẹ và giữ ổn định, đây là động lực để các cơ sở chăn nuôi đẩy mạnh tái đàn, đáp ứng nhu cầu hiện tại và chuẩn bị cho nguồn cung các dịp lễ, Tết sắp tới. Theo Tổng cục Thống kê ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Bảy năm 2023 tăng khoảng 2,8% so với cùng thời điểm năm 2022.
Chăn nuôi gia cầm:
Tổng đàn gia cầm vẫn ở mức ổn định, đảm bảo nguồn cung cho thị trường. Hiện nay, một số trang trại nuôi gà thịt đã kết nối được các doanh nghiệp tiêu thụ, tạo thành chuỗi khép kín từ trang trại đến bàn ăn, góp phần thúc đẩy hoạt động chăn nuôi phát triển. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Bảy năm 2023 tăng khoảng 2,3% so với cùng thời điểm năm 2022.
Thú y:
Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến ngày 25/7/2023, tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cả nước cụ thể như sau:
– Dịch Cúm gia cầm (CGC): Trong tháng 7, phát sinh 02 ổ dịch tại tỉnh Tiền Giang. Từ đầu năm đến nay, cả nước đã xảy ra 14 ổ dịch CGC A/H5N1 tại 09 tỉnh, thành phố: Cao Bằng, Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Tiền Giang, Sóc Trăng. Số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 18.912 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 51,72%, số gia cầm phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 72,23%. Hiện nay, cả nước có 02 ổ dịch CGC A/H5N1 tại tỉnh Tiền Giang chưa qua 21 ngày.
– Dịch Lở mồm long móng (LMLM): Trong tháng 7, cả nước không có báo cáo phát sinh ổ dịch LMLM. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 19 ổ dịch tại 09 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 618 con, số gia súc tiêu hủy là 21 con. Hiện nay, cả nước không có dịch bệnh LMLM.
– Dịch Tai xanh: Trong tháng 7, cả nước không có báo cáo phát sinh ổ dịch Tai xanh. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 03 ổ dịch tại tỉnh Cao bằng; số lợn mắc bệnh là 95 con, số lợn chết và tiêu hủy là 75 con. Hiện nay, cả nước không có dịch bệnh Tai Xanh.
– Dịch Tả lợn châu Phi: Trong tháng 7, cả nước phát sinh 25 ổ dịch tại 10 tỉnh. Tổng số lợn bị tiêu hủy là 237 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 215 ổ dịch tại 36 tỉnh; tổng số lợn bị tiêu hủy là 8.564 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 77,48%; số lợn phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 81,94%. Hiện nay, cả nước có 50 ổ dịch thuộc 25 huyện của 14 tỉnh chưa qua 21 ngày.
– Bệnh viêm da nổi cục (VDNC): Trong tháng 7, cả nước phát sinh 01 ổ dịch tại tỉnh Tiền Giang. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 66 ổ dịch tại 11 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 360 con, số gia súc tiêu hủy là 77 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 69,86%; số trâu, bò phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 82,33%. Hiện nay, cả nước có 02 ổ dịch tại tỉnh Tiền Giang chưa qua 21 ngày.
Thị trường chăn nuôi
Trên thị trường thế giới, giá lợn nạc sẽ giao trong tháng 10/2023 ở Chicago, Mỹ biến động tăng với mức tăng 4,9 UScent/lb lên mức 84,25 UScent/lb.
Tại thị trường trong nước, trong tháng 7, giá lợn hơi trên cả nước biến động trái chiều. Tại khu vực miền Bắc, giá lợn hơi tăng 3.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 62.000 – 64.000 đồng/kg. Trong đó, mức giao dịch thấp nhất khu vực là 62.000 đồng/kg, ghi nhận tại Yên Bái, Lào Cai, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và Tuyên Quang. Lợn hơi tại Hưng Yên, Vĩnh Phúc và Hà Nội đang được thu mua với giá cao nhất khu vực là 64.000 đồng/kg. Các tỉnh thành còn lại giao dịch lợn hơi ở mức 63.000 đồng/kg.
Giá lợn hơi ở thị trường miền Trung, Tây Nguyên ổn định, dao động trong khoảng 59.000 – 62.000 đồng/kg. Trong đó, giá lợn hơi được ghi nhận tại hai tỉnh Đắk Lắk và Bình Thuận là 59.000 đồng/kg; giá lợn hơi tại tỉnh Lâm Đồng là 61.000 đồng/kg. Tại các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh đang neo ở mức 62.000 đồng/kg. Các tỉnh còn lại thu mua lợn hơi chung mốc 60.000 đồng/kg.
Tại miền Nam, giá lợn hơi ổn định, dao động trong khoảng 59.000 – 62.000 đồng/kg. Lợn hơi tại các tỉnh Sóc Trăng, Cần Thơ và Đồng Tháp đang được giao dịch chung mức 62.000 đồng/kg. Các tỉnh thành còn lại có giá trong khoảng 59.000 – 61.000 đồng/kg.
Giá thu mua gà tại trại biến động tăng tại các vùng miền trong tháng 7/2023. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Bắc tăng 3.000 đồng/kg lên mức 51.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Trung tăng 5.000 đồng/kg lên mức 52.000 đồng/kg Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Nam tăng 13.000 đồng/kg lên mức 51.000 -52.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Nam và miền Trung tăng 6.000 đồng/kg lên mức 39.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Bắc tăng 7.000 đồng/kg lên mức 35.000 đồng/kg.
Giá trứng gà miền Bắc tăng 100 đồng/quả lên mức 1.700 – 2.100 đồng/quả. Giá trứng gà miền Trung giảm 100 đồng/quả xuống mức 1.700 – 1.900 đồng/quả.
Giá trứng gà miền Đông Nam Bộ và miền Tây Nam Bộ tăng 100 đồng/quả lên 2.100 – 2.300 đồng/quả.
Thị trường xuất khẩu
Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 7 năm 2023 ước đạt 45 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 7 tháng đầu năm 2023 đạt 276 triệu USD, tăng 27,4% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 76 triệu USD, tăng 18,7%; xuất khẩu thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 80 triệu USD, tăng 36,5%
Thị trường nhập khẩu
Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 7 năm 2023 ước đạt 332 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 7 tháng đầu năm 2023 đạt 2,01 tỷ USD, giảm 8,6% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa ước đạt 732 triệu USD, giảm 9,3%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 752 triệu USD, giảm 4,8%
Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu:
Giá trị nhập khẩu mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 7 năm 2023 ước đạt 700 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 7 tháng đầu năm 2023 đạt 3,04 tỷ USD, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường: Áchentina (chiếm 25,4% thị phần), Ấn Độ (15,1%) và Hoa Kỳ (14,7%). So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ Áchentina giảm 20,9%, trong khi giá trị nhập khẩu từ Ấn Độ tăng gấp 2,1 lần và nhập khẩu từ Hoa Kỳ tăng 6,4%
Nhập khẩu đậu tương:
Khối lượng nhập khẩu đậu tương tháng 7 năm 2023 ước đạt 40 nghìn tấn với giá trị ước đạt 27 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 7 tháng đầu năm 2023 đạt 1,16 triệu tấn và 755 triệu USD, giảm 5,8% về khối lượng và giảm 11,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.
Giá đậu tương nhập khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2023 ước đạt 652 USD/tấn, giảm 6,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Hoa Kỳ, Braxin và Canađa là 3 thị trường cung cấp đậu tương chính cho Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2023 với tổng thị phần là 94,5%. So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu đậu tương của Việt Nam từ thị trường Hoa Kỳ tăng 32%; Canađa tăng 28,4%. Ngược lại, nhập khẩu đậu tương từ thị trường Braxin giảm 23,7%.
Nhập khẩu lúa mì:
Ước nhập khẩu lúa mì tháng 7 năm 2023 đạt 400 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu đạt 134 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 7 tháng đầu năm 2023 đạt 2,88 triệu tấn và 1,03 tỷ USD, tăng 11,3% về khối lượng và tăng 5,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.
Giá lúa mì nhập khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2023 ước đạt 356 USD/tấn, giảm 5,4% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, nguồn nhập khẩu lúa mì chính của Việt Nam là từ các thị trường: Ôxtrâylia (chiếm tỷ trọng 70,4%), Braxin (10,7%) và Hoa Kỳ (7,9%). So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu lúa mì của Việt Nam từ Ôxtrâylia tăng 11,6%; Hoa Kỳ tăng 46,7%, trong khi nhập khẩu từ Braxin giảm 14,9%.
Nhập khẩu ngô:
Khối lượng ngô nhập khẩu tháng 7 năm 2023 ước đạt 480 nghìn tấn với giá trị đạt 146 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 7 tháng đầu năm 2023 đạt 4,19 triệu tấn và 1,38 tỷ USD, giảm 18,5% về khối lượng và giảm 24,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022.
Giá ngô nhập khẩu bình quân 7 tháng đầu năm 2023 ước đạt 329 USD/tấn, giảm 7,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, nguồn nhập khẩu ngô của Việt Nam chủ yếu từ 3 thị trường Braxin, Áchentina và Ấn Độ với tổng thị phần chiếm 91,1%. So với cùng kỳ năm 2022, giá trị nhập khẩu ngô từ Braxin gấp 4,1 lần, Ấn Độ tăng 45,2%, trong khi nhập khẩu từ Áchentina giảm 63,5%
Nguồn: channuoivietnam.com