Tình hình chăn nuôi cả nước tháng 3/2022

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong quý I, đàn lợn tiếp tục đà hồi phục, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát và đàn gia cầm cả nước phát triển ổn định, ước tính tổng đàn lợn đến thời điểm cuối tháng 3 tăng khoảng 4,2% so với cùng thời điểm năm 2021; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I ước đạt 1041,6 nghìn tấn, tăng 4,3%; đàn gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 3 tăng khoảng 2,4% so với cùng thời điểm năm 2021; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I ước đạt 507,3 nghìn tấn, tăng 5,3% .

Tình hình chung

Sản xuất chăn nuôi cả nước quý I năm 2022 thực hiện trong điều kiện dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, giá nguyên vật liệu đầu vào ở mức cao, giá TACN biến động mạnh, thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài ở các tỉnh phía Bắc đã ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng và vật nuôi, thêm vào đó là giá xăng, dầu liên tục tăng đã gây áp lực đến các hoạt động sản xuất chăn nuôi cả nước.

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong quý I, đàn lợn tiếp tục đà hồi phục, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát và đàn gia cầm cả nước phát triển ổn định, uớc tính tổng đàn lợn đến thời điểm cuối tháng Ba tăng khoảng 4,2% so với cùng thời điểm năm 2021; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I ước đạt 1041,6 nghìn tấn, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2021, đạt 24% kế hoạch năm 2022; đàn gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Ba tăng khoảng 2,4% so với cùng thời điểm năm 2021; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I ước đạt 507,3 nghìn tấn, tăng 5,3% và đạt 25% kế hoạch cả năm 2022.

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 3 năm 2022 ước đạt 30 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 3 tháng đầu năm 2022 ước đạt 76 triệu USD, giảm 22,4% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 27 triệu USD, tăng 4,8%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 24 triệu USD, giảm 9,4%.

Chăn nuôi trâu, bò:

Tình hình chăn nuôi trâu, bò trên cả nước trong quý I 2022 bị ảnh hưởng thời tiết và dịch bệnh. Thời tiết rét đậm, rét hại, băng giá, mưa tuyết trong tháng Hai tại các tỉnh miền Bắc đã khiến hàng nghìn con trâu, bò bị chết rét. Hiện nay, dịch Viêm da nổi cục đã được kiểm soát nhưng vẫn còn xảy ra tại một số tỉnh. Theo Tổng cục Thống kê, ước tính tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Ba giảm khoảng 2%; tổng số bò tăng khoảng 1,1% so với cùng thời điểm năm 2021; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng quý I ước đạt 33,9 nghìn tấn, tăng 1,1%; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng quý I ước đạt 128,9 nghìn tấn, tăng 3,4%; sản lượng sữa bò tươi quý I ước đạt 304,4 nghìn tấn, tăng
10,5% so với cùng kỳ năm 2021.

Chăn nuôi lợn:

Trong quý I, đàn lợn cả nước tiếp tục đà hồi phục, dịch tả lợn châu Phi đang được kiểm soát. Tổng đàn vật nuôi và sản lượng sản xuất tại các doanh nghiệp, trang trại, hộ chăn nuôi đang dần ổn định, đặc biệt là các đơn vị chủ động được nguồn con giống, liên kết tiêu thụ sản phẩm đầu ra, đảm bảo vệ sinh, an toàn sinh học. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Ba tăng khoảng 4,2% so với cùng thời điểm năm 2021; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I ước đạt 1041,6 nghìn tấn, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2021 và đạt 24% kế hoạch năm 2022.

Chăn nuôi gia cầm:

Nhìn chung đàn gia cầm phát triển ổn định trong quý I do khu vực hộ mở rộng quy mô chăn nuôi, khu vực doanh nghiệp phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát, chỉ phát sinh một số ổ dịch nhỏ lẻ. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Ba tăng khoảng 2,4% so với cùng thời điểm năm 2021; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I ước đạt 507,3 nghìn tấn, tăng 5,3% và đạt 25% kế hoạch năm 2022; sản lượng trứng gia cầm quý I ước đạt 4,6 tỷ quả, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2021.

chăn nuôi gia cầm

Thú y:

Theo thông tin từ Cục Thú y, tính đến ngày 21/3 tình hình dịch bệnh trên gia súc và gia cầm như sau:

– Dịch cúm gia cầm: Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch CGC A/H5N1 tại thành phố Hà Nội chưa qua 21 ngày;

– Dịch lợn tai xanh: Hiện nay, cả nước không có dịch Tai xanh;

– Dịch Lở mồm long móng: Hiện nay, cả nước không có dịch bệnh LMLM;

– Dịch tả lợn châu Phi: Hiện nay, cả nước có 100 ổ dịch tại 53 huyện của 24 tỉnh, thành phố chưa qua 21 ngày;

– Dịch Viêm da nổi cục: Hiện nay, cả nước có 101 ổ dịch tại 22 huyện của 05 tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Khánh Hòa, Đắk Lắk và Bình Định chưa qua 21 ngày.

Tính đến thời điểm cuối tháng Ba, ước tính tổng đàn lợn tăng khoảng 4,2% so với cùng thời điểm năm 2021; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I ước đạt 1041,6 nghìn tấn, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2021, đạt 24% kế hoạch năm 2022; đàn gia cầm của cả nước tăng khoảng 2,4%, sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I ước đạt 507,3 nghìn tấn, tăng 5,3% so với cùng thời điểm năm 2021 và đạt 25% kế hoạch cả năm 2022.

Thị trường chăn nuôi

Trên thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 4/2022 ở Chicago, Mỹ biến động giảm trong tháng qua với mức giảm 0,95 UScent/lb xuống mức 102,55 Ucent/lb. Giá thịt lợn giảm do sức mua thấp.

Tại thị trường trong nước, trong tháng 3/2022, giá lợn hơi miền Bắc biến động giảm với mức giảm 2.000 – 3.000 đồng/kg. Cụ thể, Hưng Yên tiếp tục là địa phương dẫn đầu toàn khu vực, giao dịch ở mức 57.000 đồng/kg. Tại tỉnh Bắc Giang và Phú Thọ giá thu mua lợn hơi dao động 54.000 – 55.000 đồng/kg. Các địa phương còn lại, hiện giao dịch trong khoảng 52.000 – 53.000 đồng/kg.

Thị trường lợn hơi khu vực miền Trung, Tây Nguyên giảm 1.000 đồng/kg. Trong đó, hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị ghi nhận mốc giá thấp nhất khu vực là 52.000 đồng/kg. Nghệ An, Bình Định, Lâm Đồng và Đắk Lắk hiện ở mức 53.000 đồng/kg. Các tỉnh thành còn lại thu mua ở mức 54.000 đồng/kg. Giá lợn hơi tại miền Trung, Tây Nguyên dao động trong khoảng 52.000 – 54.000 đồng/kg.
Tại miền Nam, giá lợn hơi giảm 2.000 đồng/kg so với tháng trước. Cụ thể, mốc giá thấp nhất khu vực hiện là 52.000 đồng/kg, ghi nhận tại tỉnh Bình Phước, TP HCM và Bà Rịa – Vũng Tàu. Nhiều tỉnh, thành phố neo tại mốc 53.000 đồng/kg, gồm: Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Cần Thơ. Giá lợn hơi tại miền Nam dao động trong khoảng 52.000 – 53.000 đồng/kg.

Giá thu mua gà tại trại biến động trái chiều tại các vùng miền trong tháng qua. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Bắc, miền Trung và miền Nam giảm 4.000 đồng/kg xuống mức 42.000 – 43.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Trung và miền Nam tăng 4.000 đồng/kg lên mức 29.000 – 30.000 đồng/kg. Giá trứng gà miền Bắc, miền Trung và miền Nam tăng 300 – 400 đồng/quả lên mức 1.800 – 2.500 đồng/quả. Giá trứng gà tăng do nhu cầu tiêu thụ tăng mạnh trong khi nguồn cung giảm

 

Thị trường xuất khẩu

Sản phẩm chăn nuôi:

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 3 năm 2022 ước đạt 30 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 3 tháng đầu năm 2022 ước đạt 76 triệu USD, giảm 22,4% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 27 triệu USD, tăng 4,8%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 24 triệu USD, giảm 9,4%.

Thức ăn gia súc và nguyên liệu:

 

Thị trường nhập khẩu

Sản phẩm chăn nuôi:

Ước giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 3 năm 2022 đạt 258 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 3 tháng đầu năm 2022 đạt 726,3 triệu USD, giảm 15,5% so với cùng kỳ năm 2021.

Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 337,7 triệu USD, tăng 18,2%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 312,7 triệu USD, giảm 7,6%.

Thức ăn gia súc và nguyên liệu:

Ước giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 3 năm 2022 đạt 360 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 3 tháng đầu năm 2022 đạt 987,9 triệu USD, giảm 18,2% so với cùng kỳ năm 2021. Trong 2 tháng đầu năm 2022, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu là từ các thị trường: Achentina (chiếm 27% thị phần), Braxin (19,1%) và Hoa Kỳ (13,4%). So với cùng kỳ năm 2021, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ Achentina giảm 11,4%, Braxin gấp 10,8 lần và Hoa Kỳ giảm 52,7%..

Đậu tương: Khối lượng đậu tương nhập khẩu tháng 3 năm 2022 ước đạt 55 nghìn tấn với giá trị đạt 34,9 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương 3 tháng đầu năm 2022 đạt 427,8 nghìn tấn và 265 triệu USD, giảm 19% về khối lượng và giảm 7,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021. Braxin, Hoa Kỳ và Canada là 3 thị trường nhập khẩu đậu tương chính của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2022 với 91,4% thị phần.

Lúa mì: Ước tính khối lượng nhập khẩu lúa mì tháng 3 năm 2022 đạt 220 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu đạt 87,8 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì 3 tháng đầu năm 2022 đạt 802,8 nghìn tấn và 297,8 triệu USD, giảm 31,9% về khối lượng và giảm 5,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021.

Nguồn nhập khẩu lúa mì chính của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2022 là từ: Ôxtrâylia (chiếm tỷ trọng 56,7%), Hoa Kỳ (16,3%) và Braxin (15,5%). So với cùng kỳ năm 2021, giá trị nhập khẩu lúa mì của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2022 từ Ôxtrâylia giảm 5,9%; Hoa Kỳ (+434,3%) và Braxin (-12%).

Ngô: Ước tính khối lượng ngô nhập khẩu tháng 3 năm 2022 đạt 500 nghìn tấn với giá trị đạt 161,1 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 3 tháng đầu năm 2022 đạt 2,07 triệu tấn và 665,3 triệu USD, giảm 23,4% về khối lượng nhưng tăng 0,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021. Nguồn nhập khẩu ngô của Việt Nam trong 2 tháng đầu năm 2022 chủ yếu là từ 3 thị trường: Achentina, Ấn Độ và Braxin, chiếm tới 89,8% thị phần. So với cùng kỳ năm 2021, giá trị nhập khẩu ngô trong 2 tháng đầu năm 2022 từ Achentina gấp 4,9 lần, Ấn Độ gấp 3,1 lần và Braxin giảm 67,4%.

Nguồn tin: http://channuoivietnam.com

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *