Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, năm 2022, ngành nông nghiệp gặp khó khăn do ảnh hưởng của hậu dịch Covid-19, xung đột Nga và Ukraina làm đứt gãy các chuỗi cung ứng sản xuất và tiêu dùng toàn cầu; nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất như xăng dầu, phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng cao; ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn…
TÌNH HÌNH CHUNG
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, năm 2022, ngành nông nghiệp gặp khó khăn do ảnh hưởng của hậu dịch Covid-19, xung đột Nga và Ukraina làm đứt gãy các chuỗi cung ứng sản xuất và tiêu dùng toàn cầu; nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất như xăng dầu, phân bón, thức ăn chăn nuôi tăng cao; ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn…
Về cơ bản, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát khá tốt, chỉ còn phát sinh những ổ dịch nhỏ lẻ. Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 12 tăng khoảng 11,4% so với cùng thời điểm năm 2021; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng cả năm ước đạt 4425,1 nghìn tấn, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2021. Tổng đàn và sản lượng gia cầm trong năm tiếp tục tăng do khu vực hộ và doanh nghiệp đều phát triển ổn định, giá bán sản phẩm ở mức có lãi1. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 12 tăng khoảng 4,8%; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng cả năm ước đạt 2028,4 nghìn tấn, tăng 4,5% so với cùng thời điểm năm 2021.
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 12 năm 2022 ước đạt 33,4 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi năm 2022 ước đạt 400 triệu USD, giảm 7,1% so với năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 105,5 triệu USD, giảm 4,3%; thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 112,3 triệu USD, giảm 3%.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm cơ bản kiểm soát tốt dịch bệnh, phát triển tương đối ổn định. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi lại đang đứng trước nhiều khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng trong khi giá thịt lợn hơi trong cả năm biến động giảm so với năm 20214. Chi phí đầu vào tăng nhưng giá bán sản phẩm đầu ra lại giảm, đã gây áp lực lớn cho người chăn nuôi, nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài thì khu vực hộ chăn nuôi nhỏ lẻ sẽ giảm đàn hoặc tạm dừng nuôi.
Chăn nuôi trâu, bò:
Theo Tổng cục Thống kê, ước tính tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 12 giảm khoảng 2,0%, tổng số bò tăng khoảng 3,1%; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng cả năm ước đạt 122,8 nghìn tấn, tăng 1,6%, sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng cả năm ước đạt 474,3 nghìn tấn, tăng 3,5%, sản lượng sữa bò tươi cả năm ước đạt 1277,5 triệu lít, tăng 10,2% so với năm 2021.
Chăn nuôi lợn:
Ước tính tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 12 năm 2022 tăng khoảng 11,4% so với cùng thời điểm năm 2021; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng cả năm ước đạt 4425,1 nghìn tấn, tăng 5,9% so với năm 2021.
Chăn nuôi gia cầm:
Tổng đàn và sản lượng gia cầm trong năm qua tiếp tục tăng do khu vực hộ và doanh nghiệp đều phát triển ổn định, giá bán sản phẩm ở mức có lãi5. Ước tính tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 12 tăng khoảng 4,8% so với cùng thời điểm năm 2021; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng cả năm ước đạt 2028,4 nghìn tấn, tăng 4,5%; sản lượng trứng gia cầm cả năm ước đạt 18,3 tỷ quả, tăng 4,4% so với năm 2021.
Dịch bệnh:
Theo báo cáo của Cục Thú Y, tính đến ngày 25/12/2022 tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm của cả nước cụ thể như sau:
– Dịch bệnh Cúm gia cầm (CGC): Hiện nay, trên cả nước không có dịch bệnh
- Dịch bệnh Lở mồm long móng gia súc (LMLM): Hiện nay, có 01 ổ dịch
LMLM tại tỉnh Gia Lai chưa qua 21 ngày. Tổng số gia súc mắc bệnh là 42 con; tổng số chết và tiêu hủy là 11 con.
– Dịch bệnh Tai xanh trên lợn: Hiện nay, trên cả nước không có dịch bệnh.
– Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP): Hiện nay, có 37 xã thuộc 21 huyện của 13 tỉnh chưa qua 21 ngày. Số lợn mắc bệnh là 3.149 con; tổng số lợn bị chết và tiêu hủy là 3.743 con.
– Dịch bệnh Viêm da nổi cục (VDNC) trên trâu, bò: Hiện nay, cả nước có 06 ổ dịch VDNC tại 03 tỉnh Tiền Giang, Hà Tĩnh và Đắk Lắk chưa qua 21 ngày. Số bò bị mắc bệnh là 13 con; tổng số chết và tiêu hủy là 01 con.
THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI TRONG NƯỚC
Trên thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 2/2023 ở Chicago, Mỹ biến động tăng trong tháng qua với mức tăng 3,7 UScent/lb lên mức 89,05 UScent/lb. Giá thịt lợn giảm do lo ngại về nhu cầu trong nước và xuất khẩu trong bối cảnh triển vọng nền kinh tế toàn cầu suy yếu.
Tại thị trường trong nước, trong tháng 12, giá lợn hơi trên cả nước giảm do sức mua giảm. Giá lợn hơi tại khu vực miền Bắc giảm với mức giảm 1.000 – 2.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 51.000 – 54.000 đồng/kg. Cụ thể, 54.000 đồng/kg là mức giao dịch cao nhất khu vực, được ghi nhận tại hai tỉnh Bắc Giang và Hưng Yên. Trong khi đó, giá thu mua thấp nhất được ghi nhận tại hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai với 51.000 đồng/kg. Tại các địa phương còn lại, giá thu mua heo hơi khoảng 52.000 – 53.000 đồng/kg.
Thị trường khu vực miền Trung, Tây Nguyên ghi nhận giá giảm 2.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 51.000 – 52.000 đồng/kg. Theo đó, các địa phương bao gồm Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Đắk Lắk và Ninh Thuận đang giao dịch cùng mức 51.000 đồng/kg – thấp nhất khu vực. Tại các địa phương khác, heo hơi được thu mua với giá 52.000 đồng/kg.
Tại miền Nam, giá lợn hơi giảm 2.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 51.000 – 53.000 đồng/kg. Theo đó, 53.000 đồng/kg tiếp tục là mức giao dịch cao nhất khu vực, được ghi nhận tại các tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cà Mau và Bạc Liêu. Heo hơi tại các tỉnh, thành còn lại đang được thương lái thu mua với giá từ 51.000 đồng/kg đến 52.000 đồng/kg.
Giá thu mua gà tại trại biến động tăng tại các vùng miền trong tháng 12/2022. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Bắc, miền Trung và miền Nam tăng 3.000 đồng/kg lên mức 45.000 – 46.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Trung và miền Nam tăng 2.000 – 3.000 đồng/kg lên mức 35.000 đồng/kg. Giá trứng gà miền Bắc tăng 150 – 250 đồng/quả lên mức 2.100 – 2.400 đồng/quả. Giá trứng gà miền Trung giảm 50 đồng/quả xuống mức 2.000 – 2.100 đồng/quả. Giá trứng gà miền Nam giảm 300 – 400 đồng/quả xuống mức 1.900 – 2.100 đồng/quả.
Nhìn lại cả năm 2022, giá lợn hơi biến động tăng vào 10 tháng đầu năm do giá thức ăn chăn nuôi tăng, nguồn cung giảm do bệnh dịch tả lợn châu Phi diễn ra ở một số địa phương, tuy nhiên giá lợn hơi có xu hướng giảm vào 2 tháng cuối năm do nhu cầu tiêu thụ giảm.
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 12 năm 2022 ước đạt 33,4 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi năm 2022 ước đạt 400 triệu USD, giảm 7,1% so với năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 105,5 triệu USD, giảm 4,3%; thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 112,3 triệu USD, giảm 3%.
Ước giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 12 đạt 250 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi năm 2022 đạt 3,32 tỷ USD, tăng 0,2% so với năm 2021. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 1,27 tỷ USD, tăng 7,7%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 1,54 tỷ USD, tăng 10,7%.
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 12 năm 2022 ước đạt 33,4 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi năm 2022 ước đạt 400 triệu USD, giảm 7,1% so với năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 105,5 triệu USD, giảm 4,3%; thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 112,3 triệu USD, giảm 3%.
THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU
- Thức ăn gia súc và nguyên liệu:
Ước giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 12 đạt 500 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu năm 2022 đạt 5,52 tỷ USD, tăng 11,9% so với năm 2021.
Trong 11 tháng đầu năm, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường: Achentina (chiếm 29,8% thị phần), Braxin (20,2%) và Hoa Kỳ (12,8%). So với cùng kỳ năm 2021, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ Achentina giảm 4,1%, Braxin (+88,8%) và Hoa Kỳ (-14,5%)
– Đậu tương:
Khối lượng đậu tương nhập khẩu tháng 12 ước đạt 170 nghìn tấn với giá trị đạt 118 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu đậu tương năm 2022 đạt 1,81 triệu tấn và 1,26 tỷ USD, giảm 10,6% về khối lượng nhưng tăng 6,3% về giá trị so với năm 2021.
Braxin, Hoa Kỳ và Canada là 3 thị trường cung cấp đậu tương chính cho Việt Nam trong 11 tháng đầu năm 2022 với 96,1% thị phần.
– Lúa mì:
Ước tính khối lượng nhập khẩu lúa mì tháng 12 đạt 140 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu đạt 54 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu lúa mì năm 2022 đạt 3,86 triệu tấn và 1,49 tỷ USD, giảm 14,1% về khối lượng nhưng tăng 12,2% về giá trị so với năm 2021.
Nguồn nhập khẩu lúa mì chính của Việt Nam trong 11 tháng đầu là từ các thị trường: Ôxtrâylia (chiếm tỷ trọng 71,7%), Hoa Kỳ (9,1%) và Braxin (7,8%).
So với cùng kỳ năm 2021, giá trị nhập khẩu lúa mì của Việt Nam trong 11 tháng đầu năm 2022 từ Ôxtrâylia tăng 14%; Hoa Kỳ (+108,5%) và Braxin (+104,6%).
– Ngô:
Ước tính khối lượng ngô nhập khẩu tháng 12 đạt 1,17 triệu tấn với giá trị đạt 391,4 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô năm 2022 đạt 9,58 triệu tấn và 3,33 tỷ USD, giảm 4,4% về khối lượng nhưng tăng 15,7% về giá trị so với năm 2021.
Nguồn nhập khẩu ngô của Việt Nam trong 11 tháng đầu chủ yếu từ 3 thị trường: Achentina, Braxin và Ấn Độ chiếm 81,7% thị phần. So với cùng kỳ năm 2021, giá trị nhập khẩu ngô trong 11 tháng đầu năm 2022 từ Achentina tăng 10%, Braxin (-9,4%) và Ấn Độ (-27,1%)
Nguồn: channuoivietnam.com