Nhân lực chất lượng cao: Giải bài toán cung – cầu

TS Bùi Huy Doanh(Người Chăn Nuôi) – Trong bối cảnh chăn nuôi đang chuyển mạnh sang mô hình hiện đại và ứng dụng công nghệ, yêu cầu về nhân lực chất lượng cao trở nên đặc biệt quan trọng. Đây được xem là “chìa khóa” giúp ngành chăn nuôi Việt Nam nâng năng suất, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh. Xoay quanh vấn đề này, phóng viên Đặc san Người Chăn nuôi đã có cuộc trao đổi với TS Bùi Huy Doanh (ảnh), Phó Trưởng khoa phụ trách Khoa Chăn nuôi, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, để lắng nghe những chia sẻ chuyên sâu về thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho ngành.

PV: Theo ông, nhân lực chất lượng cao đóng vai trò như thế nào trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành chăn nuôi Việt Nam?

TS Bùi Huy Doanh: Nhân lực chất lượng cao giữ vai trò then chốt trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành chăn nuôi Việt Nam. Trước hết, đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn vững giúp tiếp nhận, làm chủ và ứng dụng hiệu quả các tiến bộ kỹ thuật – từ di truyền, dinh dưỡng, thú y đến công nghệ số và tự động hóa. Nhờ đó, năng suất được nâng cao, chất lượng sản phẩm cải thiện, đồng thời chi phí sản xuất giảm, giúp doanh nghiệp gia tăng lợi thế cạnh tranh.

Thứ hai, nhân lực chất lượng cao là nền tảng để hình thành chuỗi sản xuất – chế biến – tiêu thụ hiện đại, đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn quốc tế. Đây chính là yếu tố quyết định để sản phẩm chăn nuôi Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn tăng sức cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu.

Thứ ba, đội ngũ chuyên gia và cán bộ kỹ thuật giỏi đóng vai trò dẫn dắt đổi mới sáng tạo, thúc đẩy phát triển các mô hình chăn nuôi bền vững, hữu cơ, kinh tế tuần hoàn và tăng cường năng lực phòng chống dịch bệnh. Họ cũng góp phần nâng cao hiệu quả quản trị trang trại, vận hành công nghệ tự động và phân tích dữ liệu, giúp doanh nghiệp dự báo rủi ro, tối ưu hóa chi phí và nâng cao chất lượng sản phẩm.

nhân lực chăn nuôi

PV: Ông đánh giá thế nào về chất lượng đào tạo nhân lực chăn nuôi hiện nay tại các cơ sở giáo dục và viện nghiên cứu?

TS Bùi Huy Doanh: Nhiều cơ sở đào tạo như Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, Đại học Cần Thơ, Đại học Nông Lâm Huế, Đại học Nông Lâm Thái Nguyên… đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nhân lực cho ngành chăn nuôi. Trong những năm gần đây, các trường đã tập trung mạnh vào đổi mới đào tạo gắn với thực tiễn; đồng thời hợp tác chặt chẽ với viện nghiên cứu và doanh nghiệp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, phát triển giống và ứng dụng công nghệ số.

Xu hướng quốc tế hóa trong đào tạo chăn nuôi – thú y cũng ngày càng rõ nét, điển hình như dự án KOICA – VNUA, hợp tác giữa Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc (KOICA) và Học viện Nông nghiệp Việt Nam (VNUA), nhằm nâng cấp cơ sở vật chất, cải tiến chương trình giảng dạy và đào tạo nguồn nhân lực có trình độ quản lý, nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật tiên tiến. Nhờ đó, giảng viên, sinh viên và cán bộ kỹ thuật có nhiều cơ hội tiếp cận công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu về chăn nuôi an toàn, bền vững.

Tuy nhiên, vẫn tồn tại sự mất cân đối giữa số lượng, phân bố nhân lực và nhu cầu tuyển dụng. Nhiều sinh viên tốt nghiệp mong muốn làm việc tại các đô thị lớn, trong khi cơ hội nghề nghiệp chủ yếu nằm ở các khu vực chăn nuôi trọng điểm xa trung tâm. Thời gian làm việc và chế độ đãi ngộ ở các trang trại có nhiều chuyển biến tích cực và hấp dẫn nhưng vẫn chưa thu hút tốt được nguồn nhân lực.

PV: Theo ông, những điểm mạnh và điểm yếu lớn nhất của nguồn nhân lực ngành chăn nuôi Việt Nam hiện nay là gì?

TS Bùi Huy Doanh: Về điểm mạnh, đội ngũ nhân lực ngành chăn nuôi có trình độ chuyên môn tốt, khả năng tiếp cận nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng hiệu quả công nghệ số, tự động hóa, AI, phân tích dữ liệu và hệ thống quản lý trang trại. Ngoài ra, họ chăm chỉ, cần cù, dễ thích nghi và được hỗ trợ thực hành thông qua sự tham gia của doanh nghiệp, giúp sinh viên cọ xát với công nghệ tiên tiến ngay từ khi học.

Tuy nhiên, nguồn nhân lực của ngành vẫn còn nhiều hạn chế. Nguồn nhân lực chất lượng cao thiếu hụt và phân bố không đồng đều giữa các vùng, chưa đáp ứng hết nhu cầu thực tiễn. Chương trình đào tạo cần tiếp tục cải tiến để theo kịp thị trường lao động và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, một bộ phận lao động còn hạn chế ngoại ngữ, kỹ năng mềm, kỹ năng quản trị và xử lý tình huống thực tế.

PV: Hiện ngành chăn nuôi đang thiếu hụt nhân lực ở những chuyên môn nào, và nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là gì, thưa ông?

TS Bùi Huy Doanh: Ngành chăn nuôi hiện thiếu đáng kể nhân lực có chuyên môn sâu trong các lĩnh vực như: dinh dưỡng – thiết kế khẩu phần tối ưu; di truyền – chọn lọc gen và ứng dụng công nghệ phân tử; quản lý giống; quản lý trang trại công nghệ cao; cũng như kỹ thuật số trong chăn nuôi.

Nguyên nhân chủ yếu gồm: sinh viên còn e ngại làm việc tại các trang trại xa trung tâm, môi trường lao động đòi hỏi cường độ cao; một số chương trình đào tạo chưa tạo đủ cơ hội phát triển chuyên môn sâu cho sinh viên giỏi; số lượng thí sinh đăng ký vào khối ngành Nông – Lâm – Ngư giảm mạnh những năm gần đây, trong khi nhu cầu tuyển dụng từ doanh nghiệp tăng nhanh; cùng với việc quy mô chăn nuôi của doanh nghiệp mở rộng mạnh, dẫn đến khoảng cách cung – cầu nhân lực ngày càng lớn.

tỷ lệ lao động

PV: Vậy, các doanh nghiệp chăn nuôi đang gặp những khó khăn gì trong việc tuyển dụng và sử dụng nhân lực chất lượng cao, thưa ông?

TS Bùi Huy Doanh: Hiện nay, các doanh nghiệp chăn nuôi đang đối mặt nhiều thách thức trong tuyển dụng và giữ chân nhân lực chất lượng cao. Việc tìm kiếm kỹ sư, bác sĩ thú y có trình độ chuyên môn vững, thành thạo quy trình chăn nuôi công nghiệp hay quản lý trang trại có kinh nghiệm thực tế không hề dễ dàng. Một số lao động trẻ còn e ngại làm việc tại các trang trại xa trung tâm hoặc phải theo ca kíp, dẫn đến khó giữ chân nhân sự giỏi.

Bên cạnh đó, tình trạng “nhảy việc” sau khi được đào tạo cũng khá phổ biến, khiến doanh nghiệp phải liên tục đầu tư chi phí đào tạo nhưng chưa có hiệu quả lâu dài. Nhu cầu về nhân lực còn hạn chế khi phải đáp ứng các yêu cầu mới của chăn nuôi hiện đại, như chuyển đổi số, tự động hóa, vận hành hệ thống công nghệ thông minh và áp dụng tư duy liên ngành kết hợp công nghệ – sinh học – quản lý.

PV: Theo ông, nhu cầu nhân lực chất lượng cao của ngành chăn nuôi trong 5 – 10 năm tới sẽ thay đổi như thế nào, thưa ông?

TS Bùi Huy Doanh: Trong 5 – 10 năm tới, nhu cầu nhân lực chất lượng cao trong ngành chăn nuôi dự báo sẽ tăng mạnh và đa dạng hơn, tập trung vào các lĩnh vực trọng yếu như quản lý an toàn sinh học, kiểm soát dịch bệnh, dinh dưỡng, di truyền giống, cũng như quản lý và vận hành trang trại công nghệ cao. Những vị trí này không chỉ đòi hỏi chuyên môn vững, mà còn cần khả năng ứng dụng công nghệ số, tự động hóa và phân tích dữ liệu để nâng cao hiệu quả sản xuất.

Bên cạnh đó, xu hướng hội nhập thị trường quốc tế, yêu cầu truy xuất nguồn gốc sản phẩm, giảm phát thải CO₂ và phát triển chăn nuôi bền vững đang tạo ra nhu cầu về những nhóm nhân lực mới. Chẳng hạn, chuyên gia vaccine, chuyên gia chế phẩm sinh học, chuyên gia dinh dưỡng chính xác, chuyên gia phúc lợi động vật và các chuyên gia triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn sẽ trở thành những vị trí rất quan trọng.

PV: Ông có thông điệp gì muốn gửi tới các nhà quản lý, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp để cùng chung tay nâng cao chất lượng nhân lực của ngành?

TS Bùi Huy Doanh: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là trách nhiệm chung của toàn ngành. Nghị quyết 71/NQ-TW của Bộ Chính trị đã xác định rõ yêu cầu cải cách, hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp để phát triển nhân lực có kỹ năng nghề cao, đồng thời nâng tầm giáo dục đại học nhằm đào tạo nhân lực trình độ cao, nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. Đây là cơ sở quan trọng để các viện, trường đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo. Theo đó, các cơ quan quản lý cần hoàn thiện chính sách, gắn đào tạo với nhu cầu thực tiễn; các cơ sở đào tạo phải đổi mới chương trình, tăng thực hành, thực tập và hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp; doanh nghiệp cần coi đầu tư cho con người là chiến lược dài hạn và chủ động tham gia đào tạo. Khi ba trụ cột cùng đồng hành, ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ xây dựng được đội ngũ nhân lực vững mạnh, đủ năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập.

Trân trọng cảm ơn ông!

TS Bùi Huy Doanh

“Ngành chăn nuôi không chỉ cần tăng số lượng lao động có trình độ cao mà còn phải xây dựng chương trình đào tạo đa ngành, kết hợp kỹ thuật – công nghệ – quản trị, để đảm bảo nhân lực đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững và năng lực cạnh tranh quốc tế trong thời gian tới”.

Kim Tiến

(Thực hiện)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *