Nguy cơ nhiễm virus cao ở người chăn nuôi động vật hoang dã

(Người Chăn Nuôi) – Nghiên cứu trong khuôn khổ sáng kiến Một sức khỏe của Tổ chức Tư vấn Nghiên cứu nông nghiệp quốc tế (CGIAR) tại Việt Nam ghi nhận 8,7% người chăn nuôi động vật hoang dã từng nhiễm virus Hanta và 26,7% từng nhiễm virus viêm gan E. 

Kết quả cho thấy nhóm lao động này có nguy cơ phơi nhiễm mầm bệnh cao, cần sớm có biện pháp can thiệp về y tế công cộng và thực hành chăn nuôi an toàn. Nghiên cứu do các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Chăn nuôi Quốc tế (ILRI), Đại học Uppsala (Thụy Điển), Viện Thú y Việt Nam và nhiều đối tác thực hiện, trong khuôn khổ sáng kiến Một sức khỏe (One Health) của CGIAR. 

nuôi động vật hoang dã

Người nông dân đứng bên cạnh một con cầy hương tại trang trại chăn nuôi của gia đình. Ảnh: ILRI/Hà Nguyễn

Theo đó, nhóm nghiên cứu thu thập và phân tích mẫu huyết thanh của người chăn nuôi 4 loài động vật hoang dã bao gồm dơi, cầy hương, dúi và lợn rừng tại 207 trang trại ở Lào Cai và Đồng Nai. Tất cả người tham gia đều là chủ trại hoặc công nhân có ít nhất 6 tháng liên tục làm việc, nhằm bảo đảm đủ thời gian phơi nhiễm tiềm ẩn để hình thành kháng thể. Những người không trực tiếp nuôi động vật hoang dã, có tiền sử từng nhiễm Hanta/HEV, hoặc đang điều trị ức chế miễn dịch, được loại khỏi nghiên cứu.

Kết quả xét nghiệm cho thấy 8,7% (18/207) từng nhiễm virus Hanta; 1,9% (4/207) có dấu hiệu phơi nhiễm gần đây với virus này; và 26,7% (55/207) từng nhiễm virus viêm gan E (HEV). Theo nhóm tác giả, tỷ lệ mắc HEV trong nghiên cứu tương đồng với các khảo sát trước đây tại Việt Nam (dao động 16 – 72,1%). Đáng chú ý, các chủ trại ở Lào Cai có tỷ lệ mắc HEV cao hơn so với Đồng Nai, có thể liên quan khác biệt về thói quen ăn uống giữa các vùng, như việc dùng tiết canh phổ biến hơn ở miền Bắc.

Ở chiều ngược lại, tỷ lệ mắc virus Hanta trong nhóm người chăn nuôi động vật hoang dã cao hơn mức ước tính trung bình toàn cầu (2,9%), cao hơn đa số số liệu ở châu Á và cao hơn các nghiên cứu trước tại Việt Nam (1,6 – 3,7%). Điều này gợi ý nhóm lao động chăn nuôi động vật hoang dã  một nhóm vốn ít được nghiên cứu so với công nhân chăn nuôi trâu, bò, lợn; nhân viên lò mổ; người bán thịt; hay cư dân cộng đồng nông nghiệp có thể chịu rủi ro phơi nhiễm mầm bệnh cao hơn cộng đồng chung.

Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Thanh Hà (Đại học Uppsala/ILRI), tác giả thứ nhất của nghiên cứu cho biết: “Virus Hanta và virus HEV đều có khả năng lây truyền giữa động vật và người. Mặc dù nghiên cứu này chưa cung cấp bằng chứng đầy đủ về việc người nhiễm có lây trực tiếp từ động vật họ nuôi hay từ nguồn khác, nhưng bước đầu cho thấy bức tranh huyết thanh học của các mầm bệnh trong nhóm người chăn nuôi động vật hoang dã, những người chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều như các nhóm nguy cơ cao đã biết”.

Theo các chuyên gia, hiểu đúng đường lây là yếu tố then chốt để giảm rủi ro. Virus Hanta chủ yếu lây qua tiếp xúc với động vật gặm nhấm nhiễm bệnh và chất bài tiết của chúng (phân, nước tiểu, nước bọt) có thể phát tán vào môi trường chuồng trại. Người nhiễm thường có triệu chứng sốt, đau cơ, nhức đầu; một số tiến triển thành hội chứng hô hấp hoặc suy thận, với tỷ lệ tử vong biến thiên từ dưới 1% tới 15% tùy chủng virus và đáp ứng miễn dịch của người bệnh. 

Trong khi đó, HEV lây chủ yếu qua thực phẩm, nước uống nhiễm bẩn; người mắc có thể viêm gan cấp với vàng da, mệt mỏi, đau bụng, nước tiểu sẫm; đa phần tự khỏi, song nguy cơ nặng tăng ở phụ nữ mang thai và người suy giảm miễn dịch.

Nghiên cứu cũng xác định một số yếu tố liên quan nguy cơ phơi nhiễm cao hơn: là nam giới, lớn tuổi; có thói quen ăn thịt/sản phẩm động vật hoang dã chưa chín kỹ; và báo cáo chưa sử dụng đúng cách trang bị bảo hộ khi tiếp xúc với vật nuôi. Các yếu tố môi trường như sinh sống ở vùng cao, khu vực có đa dạng sinh học cao cũng có thể ảnh hưởng đến nguy cơ.

Việc nuôi nhốt động vật hoang dã vì mục đích thực phẩm và thương mại khá phổ biến ở Việt Nam. Một khảo sát giai đoạn 2015 -2021 ghi nhận cả nước có ít nhất 6.744 trang trại loại này. Cường độ tiếp xúc gần giữa người và các loài có khả năng mang mầm bệnh là nguyên nhân làm tăng rủi ro phơi nhiễm các tác nhân lây truyền từ động vật sang người.

Từ kết quả trên, nhóm tác giả kiến nghị cần có các biện pháp can thiệp đồng bộ theo tiếp cận “Một sức khỏe” như: nâng cao nhận thức và huấn luyện an toàn sinh học cho chủ trại, công nhân; tuân thủ bảo hộ lao động (găng tay, khẩu trang, kính, ủng), vệ sinh tay và khử khuẩn bề mặt chuồng trại; quản lý chất thải, kiểm soát động vật gặm nhấm xâm nhập, cải thiện thông khí và vệ sinh môi trường; tuyệt đối không ăn tiết canh, đảm bảo nấu chín kỹ thịt và sản phẩm động vật; sử dụng nguồn nước sạch, kiểm soát nguồn thức ăn; giám sát huyết thanh định kỳ cho nhóm lao động nguy cơ cao, phối hợp y tế – thú y trong phát hiện sớm và ứng phó ổ dịch. 

Nhóm nghiên cứu nhấn mạnh, xét nghiệm huyết thanh giúp phát hiện phơi nhiễm trong quá khứ hoặc hiện tại, kể cả ở người không triệu chứng, nhưng chưa cho phép xác định chính xác nguồn lây. Do đó, cần thêm các nghiên cứu dọc, kết hợp xét nghiệm phân tử trên người và động vật, để làm rõ con đường lây truyền và xây dựng khuyến nghị mục tiêu cho từng loài nuôi, từng vùng sinh thái.

Minh Khuê

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *