Bệnh khó đẻ ở lợn

Hiện nay trình trạng heo nái sinh ít con, số lứa trên năm không đạt 2,2-2,4 lứa/ năm, tỉ lệ sống đến lẻ bầy không cao đó là tình hình chung của các hộ chăn nuôi heo nái hiện nay. Đặc biệt trong qua trình chăm sóc lợn nái sinh sản người chăn nuôi gặp không ít khó khăn. Một trong những khó khăn đó là Bệnh đẻ khó ở lợn, bệnh này do nhiều nguyên nhân khác nhau, để giúp bà con hiểu rõ về bệnh này sau đây tôi xin nêu một số nguyên nhân và giải pháp khắc phục bệnh khó đẻ ở lợn nái sinh sản.

 

1. Nguyên nhân:

Bệnh đẻ khó ở lợn xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau. Sau đây là những nguyên nhân chủ yếu:

– Do lợn nái không được chăm sóc tốt trong suốt quá trình nuôi từ hậu bị đến khi lợn chửa, đẻ, như ít vận động, cơ bụng, cơ hoành, cơ liên sườn yếu và xương chậu hẹp. Trong quá trình chăm sóc chúng ta nên lưu ý đến chế độ ăn, bổ sung đầy đủ các khoáng chất, vitamin, cân đối chất đạm, chất xơ… chúng ta có thể bổ sung chế phẩm sinh học Vườn Sinh thái vào trong thức ăn, pha trộn theo tỷ lệ như HD, trong chế phẩm chứa đầy đủ và cân bằng các chất khoáng vi lượng, đa lượng, men, vitamin,acid amin…sẽ làm cho lợn mẹ tăng sức đề kháng.

– Do xương chậu hẹp bẩm sinh, do thai quá to vì chế độ ăn uống cho lợn nái khi có chửa không đúng quy trình kỹ thuật. Khi lợn chửa bị sốt cao do mắc các bệnh truyền nhiễm đã điều trị trong thời gian khá dài.

– Do lợn nái quá già, nội tiết tố mất cân bằng hay nồng độ hoormon kích đẻ quá thấp trong thời gian đẻ. Do lợn nái bị liệt 1/3 thân sau; nơi đẻ, cách đỡ đẻ không đúng kỹ thuật hoặc chưa phù hợp và do đẻ ngược thai…

 

Bệnh đẻ khó ở lợn

 

2. Triệu chứng:

Lợn nái rặn nhiều lần, thời gian lâu mà không đẻ được, cơn co bóp rặn đẻ thưa dần, lợn nái mệt mỏi khó chịu, nước ối tiết nhiều và có lẫn máu (màu hồng nhạt). Có trường hợp lợn nái đẻ được một con rồi nhưng vẫn đẻ khó ở con tiếp theo. Khi thò tay vào thấy thai nằm ngay xương chậu nhưng do đẻ ngược thai (quay lưng ra), do xương chậu hẹp nhưng bào thai quá to.

 

3. Phòng bệnh:

Cần chọn giống lợn hậu bị đúng kỹ thuật về ngoại hình, lợn có hình nêm (phía đầu nhỏ, phía sau to dần). Cần loại bỏ những lợn dị dạng, lợn nhỏ, xương chậu hẹp và lợn nái quá già cần loại thải. Ngăn chuồng cho lợn nái đẻ riêng biệt, yên tĩnh và giữ vệ sinh. Đỡ đẻ đúng kỹ thuật, không gây ồn ào trong khi lợn đẻ. Tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng tốt, bổ sung kịp thời các nguyên tố vi lượng giúp cho quá trình tiết hoormon phù hợp với từng giai đoạn.

 

4. Điều trị:

Trường hợp đã vượt quá thời gian rặn đẻ cho phép, cần tiêm Oxytocin 20- 50UI/ 1con nái, có thể tiêm vào tĩnh mạch là tốt nhất. Trường hợp không có kết quả, cần can thiệp bằng tay hoặc phẫu thuật để lấy thai ra.

Sau khi can thiệp xong, cần thụt rửa âm đạo bằng nước muối pha loãng, dùng các loại kháng sinh sau đây chống viêm tử cung, âm đạo: Ampicillin 10mg/ kg trọng lượng, ngày tiêm 2 lần; Ampi-kana 15mg/kg trọng lượng/ngày; Genta-tylo 2ml/ 10kg trọng lượng; Gentamycin 4% tiêm 1ml/6kg trọng lượng và Lincomycin 10% tiêm 1ml/10kg trọng lượng. Dùng các loại thuốc bổ để tăng sức đề kháng cho lợn như Vitamin E, B-complex, Vitamin E, C, B1.

 

Nguồn: K.S Phạm Công Khải

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *