Kiểm soát bệnh Mark ở gà

(Người Chăn Nuôi) – Marek trên gà là một bệnh nguy hiểm với tỷ lệ tử vong cao, gây thiệt hại nghiêm trọng cho người chăn nuôi.

Nguyên nhân

Bệnh do 1 loại virus thuộc nhóm herpes gây ra. Ðến nay người ta đã phân lập được 3 type virus herpes (trong đó chỉ có type 1 là có độc lực). Virus có thể tồn tại lâu trong đệm lót chuồng, bụi bặm ở chuồng gà bệnh đến 16 tuần, trong glycerin 6 tháng. Virus có ở các lỗ chân lông, bám vào vỏ trứng, được thải ra từ phân gà, dãi dớt.

 

Ðặc điểm dịch tễ

Cơ chế gây bệnh: Sau khi xâm nhập, virus này tồn tại trong cơ thể gà và trở thành nguồn lây bệnh cho các cá thể khác. Bệnh làm cho tế bào lympo tăng sinh lớn thành các khối u ở tổ chức thần kinh ngoại biên, các cơ quan nội tạng, da và cơ, từ đó vật nuôi rối loạn vận động và bại liệt. Ðây là bệnh rất nguy hiểm, gây thiệt hại kinh tế cho chăn nuôi gà, từng được gọi là bệnh thế kỷ.

Ðường lây truyền: Bệnh có thể lây qua đường hô hấp từ gà bệnh sang gà khỏe, do virus có trong nang lông, vảy da gà bong tróc của gà bệnh và mầm bệnh có trong bụi. Bệnh có thể lây qua đường tiêu hóa như thức ăn, nước uống, dụng cụ chăn nuôi mang mầm bệnh và nhà máy ấp trứng bị nhiễm mầm bệnh từ nang lông. Vì vậy sẽ lây lan nhanh giữa các con bệnh với con khỏe. Bệnh không lây từ gà mẹ sang trứng.

Ðối tượng nhiễm bệnh: Tất cả các loại gà đều mẫn cảm với bệnh. Gà thường mắc bệnh sau 6 tuần tuổi, xảy ra chủ yếu ở độ 8 – 24 tuần tuổi. Ngoài gà còn có ghi nhận bệnh xảy ra trên thủy cầm và các loại chim. Các theo dõi cho thấy tỷ lệ chết ở gà thịt là 20%; Gà đẻ 35 – 40%; Tỷ lệ loại thải ở gà đẻ cao, năng suất trứng giảm sút…

 

Triệu chứng

Khi bị nhiễm virus, gà có thời gian ủ bệnh khá dài, khoảng 3 – 4 tuần. Bệnh tiến triển chủ yếu ở hai thể cấp tính và mãn tính:

Thể cấp tính chủ yếu ở gà 4 – 8 tuần tuổi, có thể sớm hơn. Bệnh ít có triệu chứng điển hình, ngoài hiện tượng chết đột ngột. Tỷ lệ chết thường cao, có khi tới 20 – 30%, thường thể hiện triệu chứng ủ rũ và gầy yếu trước khi chết. Gà thường bỏ ăn, ỉa phân lỏng và giảm tỷ lệ đẻ, đi lại khó khăn, bại liệt, sã cánh một bên do viêm dây thần kinh vận động.

Thể mãn tính hay thể cổ điển chủ yếu xảy ra ở gà 4 – 8 tháng tuổi thường ở hai thể, thể thần kinh và thể mắt.

– Thể thần kinh: Gà bệnh đi lại khó khăn, liệt nhẹ rồi dần dần bại liệt hoàn toàn. Ðuôi gà có thể bị rủ xuống hoặc lệnh sang một bên. Cánh sã xuống một bên hoặc cả hai bên.

– Thể viêm mắt: Trong nhiều ổ dịch gà thường viêm mắt. Bệnh bắt đầu bằng hiện tượng viêm mắt nhẹ. Con vật tỏ ra rất mẫn cảm với ánh sáng, chảy nước mắt trong. Dần dần viêm màng tiếp hợp rồi viêm mống mắt. Mủ trắng đóng dày khóe mắt, khả năng nhìn kém dần, không mổ trúng thức ăn và cuối cùng có thể bị mù.

 

Bệnh tích

Ở thể cấp tính, chủ yếu hình thành các khối u ở nội tạng.

Với thể u lan tràn, u thường có ở gan, lách, thận, phổi, buồng trứng, túi Fabricius, dịch hoàn… gan, lách sưng to hơn nhiều lần so bình thường, nhạt màu và bở. Trong khi đó, nếu khối u ở thể hạt làm mặt gan sần sùi với nhiều nốt to, nhỏ màu trắng xám. Trường hợp khối u ở đường tiêu hóa như dạ dày tuyến, thành ruột, sẽ làm tổ chức này dày lên. Còn u ở cơ làm tổ chức cơ phồng to, mặt cắt khối u màu trắng xám do thâm nhiễm bạch cầu.

Thể mãn tính, bệnh tích chủ yếu là hiện tượng viêm tăng sinh các dây thần kinh ngoại vi. Dây thần kinh hông, thần kinh cánh bị sưng to, có khi to hơn 4 – 5 lần so với bình thường và có thể bị phù thũng. Ngoài bệnh tích ở tổ chức thần kinh còn một số bệnh tích khác như các cơ bị teo, mắt mù, con ngươi biến dạng.

 

Chẩn đoán

Chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng, mổ khám bệnh tích bằng việc phát hiện các khối u ở da, gan, thận, phổi, buồng trứng, lá lách, trong cơ các tổ chức mềm khác của gà bị bệnh. Bệnh Marek rất dễ nhầm với bệnh Leuco về mặt dịch tễ học, triệu chứng lâm sàng và các biến đổi bệnh tích đại thể.

 

Phòng, trị bệnh

Bệnh không có thuốc chữa trị đặc hiệu. Vì vậy, trong quá trình nuôi, cần thực hiện tốt các biện pháp phòng bệnh.

Khi chưa có dịch xảy ra, cần tuân thủ lịch tiêm vaccine phòng bệnh Marek bắt buộc cho gà con 1 ngày tuổi dùng để sinh sản (gà ông bà, bố mẹ, gà nuôi lấy trứng) tại cơ sở ấp trứng. Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh thú y, chăm sóc nuôi dưỡng để ngăn chặn mầm bệnh lây lan trong chuồng nuôi. Hàng ngày quét, nhặt thu dọn lông và đốt hết lông vì virus tồn tại lâu trong chân lông.

Thực hiện các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học. Ðối với các trại gà chăn nuôi công nghiệp nhất thiết phải có khu riêng biệt nuôi gà mái đẻ và khu nuôi gà con, phải tuyệt đối chấp hành nguyên tắc: Cùng nhập – cùng xuất (gà đưa vào nuôi cùng một lúc, xuất ra cùng một lúc). Chú ý không nuôi chung các lứa gà với nhau. Sau khi xuất chuồng phải tiến hành tổng tẩy uế chuồng trại, dụng cụ và môi trường chăn nuôi bằng các loại thuốc khử trùng, sau đó chuồng trại phải để trống ít nhất 1 tháng. Riêng đối với đàn đã nhiễm bệnh trước đó để trống chuồng ít nhất 3 tháng và thường xuyên vệ sinh tiêu độc khử trùng.

Hàng ngày theo dõi, kiểm tra tình trạng sức khỏe của gà. Khi có bệnh xảy ra cần cách ly đàn mắc bệnh, không được vận chuyển gà trong đàn nhiễm bệnh ra ngoài; Tiêu hủy toàn bộ đàn mắc bệnh (bằng cách đốt, sau đó chôn giống như đối với bệnh cúm gia cầm), đồng thời xử lý các chất tồn dư (phân, rác…);  Vệ sinh tiêu độc khử trùng chuồng trại định kỳ 1 – 2 lần/1 tuần; Cấm nhập gà giống về nuôi trong thời gian xử lý đàn gà bệnh; Ðể trống chuồng ít nhất 3 tháng.

>> Virus gây bệnh được nhà bệnh lý học người Hungary Jozsef Marek mô tả lần đầu tiên ở Hungary vào năm 1907. Ở Việt Nam, bệnh đã xuất hiện từ năm 1978 và xảy ra nặng những năm 1980, do chăn nuôi gà công nghiệp phát triển.

Lê Loan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *