(Người Chăn Nuôi) – Chương trình RISE đã rất thành công làm giảm nhiễm độc tố nấm mốc và cải thiện tình trạng và hiệu suất sức khỏe của động vật.
Quốc gia: Nam Âu
Loại trại: Trại bò sữa
Động vật được phân tích: Bò tơ và bò sản xuất giai đoạn giữa và cuối
Tóm tắt tình trạng
Nguy cơ
Các triệu chứng nghiêm trọng không rõ nguồn gốc làm giảm hiệu suất chăn nuôi ở một trang trại bò sữa. Các nhà sản xuất đã ra quyết định dựa vào Chương trình RISE® vì nghi ngờ độc tố nấm mốc là nguyên nhân chính gây ra vấn đề này. Do đó, phân tích TMR (16 độc tố nấm mốc) và máu (36 dấu ấn sinh học độc tố nấm mốc) đã được thực hiện với LC-MS/MS để làm sáng tỏ sự phơi nhiễm độc tố nấm thực tế. Các mẫu máu được thu thập bằng thẻ FTA (hình 1)… Kết quả cho thấy bị nhiễm sáu độc tố nấm mốc khác nhau: 2 độc tố nấm mốc trong TMR (deoxynivalenol và fumonisins) và 4 độc tố nấm mốc mới nổi trong máu (beauvericin, enniatin B, enniatin B1 và axit tenuazonic) (bảng 1).
Hình 1. Các mẫu máu được thu thập bằng thẻ FTA. Chỉ cần 60 ìL máu ở mỗi động vật để định lượng 36 dấu ấn sinh học độc tố nấm mốc.
Sự phơi nhiễm nhiều với các độc tố nấm mốc mới nổi như enniatin và axit tenuazonic đã được khẳng định. Qua các cuộc khảo sát nguyên liệu thô/thức ăn chăn nuôi và Chương trình giám sát sinh học Innovad đã xác nhận rằng các độc tố nấm mốc mới nổi xuất hiện phổ biến hơn độc tố nấm mốc hiện hữu trước đây.
Bảng 1. Bản đồ nhiệt tóm tắt nồng độ độc tố nấm mốc được phát hiện trong TMR và máu sau khi nhiễm của Innovad®.
Ảnh hưởng
Nguy cơ được xác định khi nhiễm 6 độc tố nấm mốc khác nhau có thể là lý do chính của các triệu chứng mắc phải. Đầu tiên, khi nhiễm độc tố nấm có tương quan với sự gia tăng số lượng tế bào soma (SCC) vì độc tố nấm mốc làm giảm đáp ứng miễn dịch. Do đó, việc đồng tiếp xúc với sáu độc tố nấm mốc khác nhau đã làm giảm chất lượng sữa và tăng SCC (> 280.000).
Zearalenone được biết rộng rãi là một độc tố nấm mốc estrogen.
Gần đây, người ta đã chứng minh khoa học rằng, các độc tố nấm mốc khác, chẳng hạn như enniatin và beauvericin cũng có thể gây độc cho hệ thống sinh sản (Chiminelli et al., 2022). Ví dụ, enniatin và beauvericin làm suy giảm chức năng buồng trứng. Do đó, việc phát hiện đồng phơi nhiễm mãn tính với 3 trong số các độc tố nấm mốc này (enniatin B, enniatin B1 và beauvericin) có thể xác định liên quan đến các vấn đề sinh sản (buồng trứng nang, >1,5). Cuối cùng, sự không nhất quán của phân đã cho thấy các vấn đề về tiêu hóa, nhưng tất cả độc tố nấm mốc được xác định trong các phân tích gây ra sự thay đổi trong quá trình lên men loài nhai lại và độc tính trong các mô ruột, Deoxynivalenol được biết là có độc tính cao đối với các tế bào ruột, nhưng các nghiên cứu khác nhau đã kết luận rằng, enniatin và beauvericin cũng độc hại như deoxynivalenol đối với tế bào ruột. Hơn nữa, cần lưu ý rằng, nhiễm đa độc tố nấm mốc có tác động xấu thêm và hiệp lực và các động vật được nghiên cứu này đã tiếp xúc với 6 độc tố nấm mốc khác nhau.
Chiến lược
Sau khi làm sáng tỏ tác động của việc phơi nhiễm với độc tố nấm mốc, bước tiếp theo là xây dựng một chiến lược.
Thông thường, chiến lược tiếp theo trong Chương trình RISE gồm 2 phần khác nhau:
– Giảm thiểu nguy cơ nhiễm: Thiết lập các biện pháp giảm nhiễm và tác động của độc tố nấm mốc và hỗ trợ động vật chống lại stress.
– Theo dõi nguy cơ nhiễm: Xây dựng kế hoạch đánh giá định kỳ mối đe dọa nhiễm độc tố nấm thực sự kết hợp TMR, phân tích máu và phân.
Để giảm thiểu rủi ro, Innovad khuyến cáo bổ sung Escent® S (25 g/động vật/ngày), là một cách giúp giải độc và giảm tác động stress. Mặt khác, Innovad đã thiết lập 1 kế hoạch giám sát thông qua Dịch vụ Myco-Marker®. Kế hoạch giám sát sinh học bao gồm việc thu thập 5 mẫu máu (5 động vật) + 5 mẫu phân (5 động vật) + mẫu TMR 2 tháng sau khi dùng Escent® S (25 g/động vật/ngày) (hình 2). Các mẫu máu (được thu thập thông qua thẻ FTA) được phân tích cho 36 dấu ấn sinh học độc tố nấm mốc khác nhau, trong khi các mẫu TMR được phân tích chỉ cho 16 độc tố nấm mốc quan trọng khác nhau. Phân được phân tích thông qua quang phổ NIR.
Hình 2. Chương trình thu thập mẫu để theo dõi rủi ro như một phần của chiến lược trong Chương trình RISE. TMR, máu (5 động vật) và phân (5 động vật) từ trang trại đã được thu thập trước và sau khi áp dụng Escent® S (2 tháng).
Đánh giá
Các mẫu được thu thập sau khi sử dụng Escent® S trong 60 ngày đã được đánh giá để đo lường hiệu quả của RISE.
Phân tích TMR đã phát hiện nhiễm 2 độc tố nấm mốc (deoxynivalenol và fumonisin) như trước khi giới thiệu Escent® S. Tuy nhiên, mẫu TMR được thu thập sau đó (sau 2 tháng dưới escent® S) có nồng độ độc tố nấm mốc cao hơn khoảng 10 lần (deoxynivalenol) và cao hơn gấp 2 lần (fumonisins) (bảng 2). Nồng độ mycotoxin cao hơn trong TMR chỉ ra rằng, các động vật nghiên cứu có nguy cơ tiếp xúc với độc tố nấm mốc cao hơn sau khi giới thiệu Escent® S. Ngược lại, không phát hiện thấy độc tố nấm mốc nào có trong máu sau 60 ngày khi động vật dùng Escent® S.
Bảng 2. Bản đồ nhiệt với kết quả độc tố nấm mốc trong TMR và trong máu và tổng số độc tố nấm được phát hiện trước và sau khi sử dụng Escent® S (25 g/động vật/ngày) trong 60 ngày.
Việc loại bỏ độc tố nấm mốc ra khỏi máu rất quan trọng và nó đã khẳng định rằng, Escent® S có thể làm giảm nhiễm với mycotoxin (bao gồm cả những độc tố mới nổi) cũng như bảo vệ động vật khỏi chúng. Cần lưu ý rằng Escent® S là công nghệ duy nhất đã chứng minh một cách khoa học khả năng làm giảm đáng kể độc tố nấm mốc từ chất lỏng sinh học (máu khô của động vật trên thẻ FTA) khi bị nhiễm đa độc tố nấm mốc.
Giảm phơi nhiễm toàn thân với độc tố nấm mốc + hợp chất nấm men (có trong Escent® S) đã giúp cải thiện tình trạng sức khỏe động vật và giảm nhiễm trùng. Do đó, SCC giảm từ > 280.000 xuống còn < 150.000 và chất lượng sữa được cải thiện.
Hơn nữa, khi ngừng tiếp xúc với enniatin B, enniatin B1 và beauvericin, nang buồng trứng đã giảm từ 1,5 xuống 0,8 và hiệu suất sinh sản được cải thiện.
Cuối cùng, phân tích phân đã phát hiện ra sự gia tăng tổng khả năng tiêu hóa của tinh bột (+ 2,7%) và chất xơ trung tính (NDF) (+ 3,8%) sau khi sử dụng Escent® S trong 2 tháng (bảng 3). Sự gia tăng tổng tiêu hóa của đường ruột rất quan trọng vì một số nghiên cứu đã chỉ ra mối tương quan chặt chẽ giữa tổng khả năng tiêu hóa chất hữu cơ đường ruột và năng suất sữa đủ năng lượng.
Theo cách này, một số xấp xỉ đã kết luận rằng, mỗi đơn vị phần trăm tăng tổng khả năng tiêu hóa tinh bột cung cấp đủ năng lượng cho ~ 317 g sữa và tăng 2 – 3 đơn vị % trong khả năng tiêu hóa NDF cung cấp đủ năng lượng cho ~ 453 g sữa (Clayton Stoffel Progressive Dairy, 2022). Xem xét sự gia tăng tổng khả năng tiêu hóa của tinh bột (+2,7 đơn vị %) và NDF (+3,8 đơn vị %) được phát hiện trong phân tích phân, năng lượng có sẵn sẽ tăng khoảng 1.310 g sữa sau 2 tháng sử dụng Escent® S (bảng 3).
Bảng 3. Khả năng tiêu hóa tinh bột (%) và NDF (%) trước và sau khi sử dụng Escent® S (25 g/động vật/ngày) trong 60 ngày. Sự gia tăng khả năng tiêu hóa của tinh bột và NDF tạo ra năng lượng có sẵn để sản xuất sữa.
Nói chung, việc thành lập Chương trình RISE đã rất thành công làm giảm nhiễm độc tố nấm mốc và cải thiện tình trạng và hiệu suất sức khỏe của động vật. Mặc dù ban đầu động vật tiếp xúc với 6 độc tố nấm mốc khác nhau, Escent® S đã làm giảm nhiễm chúng và bảo vệ động vật. Đánh giá giám sát sinh học đã xác nhận hiệu quả của chương trình. Trong khi trước khi dùng Escent® S có 6 độc tố nấm mốc (2 TMR + 4 máu) được phát hiện, nhưng sau 60 ngày sử dụng chỉ còn 2 độc tố nấm mốc (2 TMR + 0 máu) được xác định. Phơi nhiễm với 2 độc tố nấm mốc ở nồng độ thấp là nguy cơ thấp nếu nó được so sánh với khảo sát máu và TMR do Innovad thực hiện, nơi 57% các trường hợp đã tiếp xúc với 6 hoặc nhiều loại độc tố nấm mốc (hình 3). Hiệu quả lớn của Chương trình RISE đã được chuyển thành hiệu suất tốt hơn (giảm SCC, cải thiện hiệu quả tiêu hóa) và tình trạng sức khỏe (cải thiện hệ thống sinh sản).
Hình 3. Phân bố tổng số mycotoxin trên mỗi ca bệnh trong TMR và khảo sát máu do Innovad thực hiện. Hai tháng sau khi sử dụng Escent® S, động vật chỉ còn nhiễm 2 độc tố nấm mốc.
Kết luận chính
– Gia súc tiếp xúc nhiều với độc tố nấm mốc mới nổi và những độc tố nấm mốc này cũng độc hại như độc tố nấm mốc đã được công nhận: Giảm hiệu suất, làm hư hại đường ruột và suy giảm hệ thống sinh sản.
– Chương trình RISE® giúp giảm nguy cơ nhiễm độc tố nấm mốc và Escent® S đã được xác nhận có hiệu quả lớn trong việc loại bỏ nồng độ độc tố nấm mốc (ngay cả những độc tố mới nổi) trong máu.
– Escent® S (25 g/động vật/ngày) cải thiện tình trạng sức khỏe từ bò (giảm nang buồng trứng) và cải thiện hiệu suất (giảm SCC và tăng năng lượng sẵn có).
– Chương trình RISE® lần đầu tiên cung cấp khả năng đánh giá hiệu quả của chiến lược kiểm soát độc tố nấm mốc cụ thể cho từng trang trại liên quan đến hiệu suất kết hợp phân tích từ TMR và máu. Dữ liệu được tạo ra cung cấp chẩn đoán vượt trội và ra quyết định sáng suốt.
Để biết thêm thông tin, vui lòng liên hệ:
TS. Arnau Vidal – a.vidal@innovad-global.com
hoặc Piero Ranzani – p.ranzani@addco.it