Nắm bắt nhu cầu thị trường, nhiều hộ dân trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã mạnh dạn đầu tư mua giống, xây chuồng trại để chăn nuôi con nuôi đặc sản như nhím, thỏ, ba ba, lợn rừng, rùa câm… Tuy nhiên, do chăm sóc và phòng bệnh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, quy mô nhỏ, lẻ, đầu ra chưa ổn định nên nhiều mô hình đang gặp khó khăn.
Gia đình ông Nguyễn Trọng Hướng, xã Thiệu Duy (huyện Thiệu Hóa) đã nhiều năm gắn bó với nghề nuôi ba ba, tuy không phải là hộ có số lượng con nuôi nhiều do diện tích hạn chế nhưng đây là một trong những hộ đầu tư hiệu quả kinh tế trên địa bàn. Đưa chúng tôi đi thăm chuồng nuôi, ông Hướng cho biết: Cách đây gần 5 năm, nhận thấy thị trường ưa chuộng các loại con nuôi đặc sản, giá thu mua lại cao nên sau khi tham khảo các mô hình nuôi ba ba ở xã Thiệu Hợp, gia đình đã quyết định đầu tư cải tạo diện tích bỏ hoang trong vườn nhà, xây dựng 4 chuồng nuôi ba ba. Cũng theo ông Hướng, chuồng nuôi được ngăn thành 2 khu vực, một bên có nền cao hơn được đổ cát dày để ba ba sinh sống và 1 bên để khô ráo là nơi ba ba đẻ trứng. Ba ba thường ẩn mình dưới lớp cát, kiếm ăn vào chiều tối, thức ăn chủ yếu của chúng là các loại cá biển nhỏ, giun đất, với khẩu phần tùy thuộc vào trọng lượng của mỗi con. Hiện nay, gia đình ông đang nuôi khoảng gần 1.000 con, ba ba nuôi từ 2 năm trở lên mới có thể đạt trọng lượng để xuất bán. Mô hình này tuy chi phí đầu tư thấp nhưng tốn nhiều công chăm sóc do ba ba là loài bò sát nên khá nhạy cảm với thời tiết, môi trường sống và nguồn thức ăn mới. Bên cạnh đó, nếu như trước đây thị trường khan hiếm, thương lái thường tìm đến tận nơi để thu mua và ký hợp đồng dài hạn thì hiện nay, mô hình nuôi ba ba trở nên phổ biến, nguồn cung vượt quá cầu nên đầu ra của sản phẩm gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với hộ mới nuôi, chưa thu hồi được vốn. Đồng thời, giá ba ba cũng giảm, nếu như thời gian trước, ba ba trọng lượng 1,2 kg có giá khoảng 350.000 đồng/kg thì hiện tại chỉ còn khoảng 200.000 đồng/kg.
Mô hình nuôi ba ba của gia đình ông Nguyễn Trọng Hướng, xã Thiệu Duy (Thiệu Hóa).
Tình cảnh bấp bênh trong việc nuôi con đặc sản đang trở nên phổ biến khi việc đầu tư nuôi chỉ ở quy mô hộ nhỏ lẻ, chưa có trang trại lớn, phát triển theo phong trào tự phát nên không bền vững. Đối với các trang trại có quy mô vừa, tuy đã nắm chắc kỹ thuật, cách phòng bệnh và kinh nghiệm chăn nuôi thì cũng gặp khó khăn khi thị trường tiêu thụ và giá cả không ổn định. Chị Hàn Thị Lý, xã Phú Nhuận (Như Thanh) đã có nhiều năm duy trì và phát triển mô hình chăn nuôi nhím, cho biết đã có nhiều người đến tìm để mua con giống tuy nhiên rất ít mô hình thành công, bởi người dân nuôi theo kiểu tự phát, kỹ thuật gây nuôi, chăm sóc và chữa bệnh đối với các con vật đặc sản chủ yếu bằng kinh nghiệm. Bên cạnh đó, do giá con giống bị một số đối tượng cơ hội đẩy giá lên quá cao, đầu ra lại bấp bênh… Thị trường tiêu thụ con đặc sản thường tập trung vào các dịp lễ, tết, người mua chủ yếu có điều kiện kinh tế và phần lớn được xuất sang thị trường Trung Quốc nên đầu ra bị phụ thuộc. Các hộ muốn tiếp tục gắn bó với nghề nuôi nhím nhưng gặp khó khăn trong việc cấp giấy chứng nhận nuôi động vật hoang dã thông thường.
Không chỉ riêng mô hình nuôi nhím, ba ba phải đối mặt với nhiều rủi ro, mà hiện nay, nhiều hộ dân nuôi các loài vật đặc sản, như lợn rừng, dê, rùa câm, đà điểu… cũng đang trong tình trạng muốn “giải nghệ” do biến động của thị trường đầu ra, giá cả bấp bênh. Hiện toàn tỉnh có gần 1.000 hộ dân được đăng ký cấp phép nuôi các con nuôi đặc sản, với tổng số hơn 20.000 cá thể; với các mô hình, như nuôi ba ba, rùa câm tại xã Thiệu Hợp (Thiệu Hóa), nuôi đà điểu tại huyện Vĩnh Lộc, nuôi dê ở huyện Hà Trung, nuôi thỏ tại các huyện Quảng Xương, Triệu Sơn… nuôi nhím tại các huyện Thạch Thành, Như Thanh… Mô hình nuôi con đặc sản có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao nếu có thị trường tiêu thụ ổn định và được tập huấn khoa học – kỹ thuật về cách chăm sóc, phòng, chữa dịch bệnh. Vì vậy, trước khi nuôi, người dân nên cân nhắc kỹ về đầu ra của sản phẩm. Các địa phương cần hỗ trợ, định hướng cho người dân con nuôi phù hợp với điều kiện, không chạy theo phong trào, tự phát. Đồng thời, các hộ chăn nuôi cần chủ động liên kết với các đơn vị chuyển giao kỹ thuật, tìm hiểu kiến thức về chăn nuôi, tìm hiểu về các đơn vị cung ứng nguồn giống đảm bảo chất lượng, thực hiện các biện pháp về phòng, tránh dịch bệnh.
Bài, ảnh: Lê Ngọc
Nguồn: Báo Thanh Hóa