(Người Chăn Nuôi) – Đây là mục tiêu đặt ra trong Đề án Phát triển bền vững ngành ong đến năm 2030, vừa được Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến ký phê duyệt tại Quyết định số 898/QĐ-BNN-CN ngày 02/4/2024 vừa qua.
Đề án sẽ phát huy tiềm năng, lợi thế của các vùng sinh thái để phát triển bền vững ngành ong theo chuỗi giá trị, truy xuất được nguồn gốc sản phẩm. Phát triển nghề nuôi ong hàng hóa, dịch vụ gắn với sinh thái theo hướng chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở phát huy kinh nghiệm phù hợp từ nghề nuôi ong truyền thống để tạo sinh kế, nâng cao thu nhập cho người dân và góp phần bảo vệ đa dạng sinh học trong nông nghiệp, tự nhiên. Chế biến sâu và đa dạng hóa sản phẩm ong có giá trị gia tăng cao đáp ứng nhu cầu thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ mới, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của ngành ong. Xã hội hóa và quốc tế hóa các hoạt động trong ngành ong.
Trang trại nuôi ong lấy mật tại huyện Xuyên Mộc (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Ảnh: ST
Mục tiêu của Đề án là nhằm phát triển bền vững, nâng cao sức cạnh tranh của ngành ong, xây dựng và bảo vệ thương hiệu sản phẩm ong Việt Nam. Sản phẩm hàng hóa của ngành ong được sản xuất chủ yếu từ các cơ sở nuôi ong chuyên nghiệp, bảo đảm an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, truy xuất nguồn gốc, thân thiện với môi trường, đáp ứng yêu cầu chất lượng, an toàn thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Cụ thể, duy trì số lượng từ 1,3 đến 1,5 triệu đàn ong được di chuyển theo nguồn hoa, nguồn mật, đạt năng suất mật bình quân cả nước trên 42 kg/đàn/năm đối với ong ngoại và trên 18 kg/đàn/năm đối với ong nội. Tổng sản lượng mật ong ổn định 55.000 – 60.000 tấn/năm, trong đó xuất khẩu khoảng 80% và tiêu dùng nội địa khoảng 20%.
Để thực hiện thành công mục tiêu này, Đề án cũng đưa ra một số nhiệm vụ và giải pháp cụ thể. Bao gồm: Ứng dụng khoa học công nghệ, chủ động chọn tạo, nhân đủ nguồn ong giống có năng suất, chất lượng phù hợp chăn nuôi ong ở các vùng sinh thái. Điều tra, khảo sát về tính đa dạng sinh học và sản phẩm mật ong đặc thù của ong mật chưa thuần hóa. Điều tra, khảo sát cây thức ăn cho ong và sản xuất thức ăn bổ sung cho ong mật. Kiểm soát dịch bệnh, an toàn thực phẩm và nguồn gốc sản phẩm. Đổi mới sản xuất, thương mại trong ngành ong.
Cùng đó, rà soát cơ chế, chính sách liên quan đến xây dựng các cơ sở thu gom, sơ chế, chế biến sản phẩm ong theo hướng chuỗi giá trị gắn với vùng phát triển chăn nuôi ong hàng hóa, tích hợp nội dung chính sách hỗ trợ cơ sở nuôi ong bị thiên tai, dịch bệnh trong chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi, nông nghiệp, ưu tiên kinh phí để tăng cường hoạt động quản lý của nhà nước trong việc kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc sản phẩm mật ong và các sản phẩm khác từ ong mật. Đưa các giống ong mật có năng suất, chất lượng, kháng bệnh cao đã được công nhận giống hoặc tiến bộ kỹ thuật theo quy định vào Chương trình trợ giá gốc giống vật nuôi do Bộ NN&PTNT quản lý. Tăng cường hợp tác quốc tế, xây dựng, duy trì và phát triển thương hiệu quốc gia cho sản phẩm mật ong Việt Nam và tiến hành bảo hộ tại các thị trường nước ngoài nhằm nâng cao hình ảnh, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm mật ong Việt Nam ra thị trường thế giới.
Thùy Khánh