Hiện nay, bệnh heo tai xanh lan nhanh gây thiệt hại rất lớn cho người chăn nuôi. Một trong những nguyên nhân khiến dịch lan ra diện rộng là do người dân còn lơ là trong cách nhận biết và phòng dịch.
- Dịch tai xanh – Điều trị các bệnh bội nhiễm
- Phòng chống hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn
- Nhiệt độ và độ sáng ảnh hưởng tới sức khỏe và năng suất nái
- Heo bị stress nhiệt: Phải làm sao?
1/ Đặc điểm, triệu chứng của bệnh tai xanh
– Heo mắc chứng rối loạn sinh sản và hô hấp (PRRS) còn gọi là bệnh heo tai xanh. Đây là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm đối với heo do virus gây ra, song bệnh heo tai xanh không lây truyền sang các gia súc khác và người. Bệnh heo tai xanh được phát hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1987. Năm 1997, bệnh lây lan vào Việt Nam trên đàn heo giống nhập từ Mỹ về.
Áp dụng kỹ các quy trình phòng bệnh sẽ giảm khả năng bùng phát dịch heo tai xanh.
– Heo nái bị bệnh tai xanh thường có các biểu hiện như: sảy thai vào giai đoạn cuối, thai chết lưu ở giai đoạn hai hoặc heo sơ sinh bị chết yểu. Khi heo nái bị bệnh sốt cao 40 – 42 độ C, viêm phổi nặng, ỉa chảy, tai chuyển từ màu hồng đỏ sang đỏ thẫm, xanh đến tím đen và dẫn đến tử vong. Heo nái đang mang thai, nuôi con còn có biểu hiện lười uống nước, mất sữa, viêm vú, da biến màu, đẻ sớm…
– Heo con mắc bệnh tai xanh thể trạng yếu, khó bú, mắt có gèn màu nâu, da có nhiều vết phồng, bị tiêu chảy nhiều, ủ rũ, viêm phổi và khả năng chết rất cao.
– Heo choai, heo thịt bị bệnh sốt cao trên 40 độ C, biếng ăn, ủ rũ, ho, khó thở, những phần da mỏng gần tai, bụng lúc đầu màu hồng nhạt dần dần chuyển màu hồng thẫm và tím nhạt.
– Heo đực giống bị bệnh tai xanh thường sốt, bỏ ăn, đờ đẫn hoặc hôn mê, giảm hưng phấn, mất tính dục, lượng tinh dịch ít. Heo ở các lứa tuổi đều có thể nhiễm virus và mắc bệnh tai xanh, tuy nhiên heo con và heo nái mang thai dễ mắc bệnh và chết hơn. Hiện nay, bệnh heo tai xanh đã phát triển thành động lực cao nên nếu không phát hiện, xử lý kịp thời rất dễ lây lan và gây hàng loạt.
2/ Điều kiện để bệnh lây lan
– Virus có trong dịch mũi, nước bọt, tinh dịch, phân, nước tiểu và phát tán ra môi trường. Ở heo mẹ mang thai, virus có thể lây nhiễm qua bào thai ở giữa thai kỳ trở đi và virus cũng được bài thải qua nước bọt và sữa. Heo trưởng thành có thể bài thải virus trong 14 ngày, còn heo con, heo choai bài thải virus kéo dài 1 – 2 tháng.
– Virus có khả năng phân tán thông qua các hình thức: vận chuyển heo mang bệnh (virus có thể theo gió đi xa đến 3 km), bụi, nước bọt, dụng cụ chăn nuôi và dụng cụ bảo hộ lao động bị nhiễm bệnh, thụ tinh nhân tạo, do một số loại chim hoang.
3/ Các biện pháp phòng dịch heo tai xanh
– Hiện nay, vẫn chưa có thuốc đặc trị bệnh heo tai xanh, vì thế các phương pháp hữu hiệu là phòng bệnh. Trong đó, tăng cường công tác giám sát đến cơ sở, hộ chăn nuôi để phát hiện kịp thời heo bệnh có triệu chứng tai xanh, tiến hành tiêu hủy ngay không chờ kết quả xét nghiệm, đồng thời lấy mẫu heo bệnh gửi xét nghiệm trước khi tiêu hủy.
– Thiết lập các chốt, trạm kiểm dịch tại các đầu mối giao thông chính gồm lực lượng công an, quản lý thị trường, thú y hoạt động 24 giờ trong ngày để kiểm soát việc vận chuyển heo, sản phẩm heo đưa vào tỉnh. Tiêu hủy và xử phạt nặng các trường hợp vận chuyển heo, sản phẩm từ heo trái phép.
– Giao trách nhiệm giám sát, phát hiện và báo bệnh cho chính quyền cấp xã, đồng thời huy động các đoàn thể phối hợp với ngành nông nghiệp để theo dõi dịch bệnh trên đàn heo tới từng hộ chăn nuôi, tránh tình trạng giấu dịch bán chạy heo bệnh. Bên cạnh đó, người chăn nuôi không được vứt xác heo chết bừa bãi ra kênh rạch làm dịch bệnh lây lan ra diện rộng.
– Chuồng trại chăn nuôi heo phải đảm bảo vệ sinh thú y, thoáng mát, che nắng, che mưa. Bà con chú ý quét dọn, tiêu độc khử trùng bằng hóa chất thông dụng như: vôi bột, Bencocid, Lodine, CloraminB… Chăm sóc tốt cho heo để nâng cao sức đề kháng, heo giống mới mua về rõ nguồn gốc, phải cách ly 2-3 tuần trước khi nhập đàn. Ngoài ra, tiêm đầy đủ vaccine phòng bệnh dịch tả, phó thương hàn, tụ huyết trùng, lở mồm long móng, tai xanh cho đàn heo. Nếu có điều kiện, người nuôi nên thực hiện quy trình "cùng nhập – cùng xuất" ở mỗi dãy chuồng. Hạn chế người ra vào trại nuôi heo, thường xuyên diệt các loại côn trùng trong và xung quanh trại. Các phương tiện vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi, nước uống phải được sát trùng cẩn thận. Trước mỗi dãy chuồng nuôi phải có hố nhúng chân sát trùng.
– Tuy chưa có kháng sinh đặc trị bệnh heo tai xanh, song người chăn nuôi có thể dùng kháng sinh hạn chế bội nhiễm các bệnh vi khuẩn sẽ phòng ngừa bệnh tai xanh. Nên định kỳ trộn kháng sinh vào thức ăn cho heo để tiêu diệt mầm bệnh vi khuẩn, giúp ngăn chặn bệnh hô hấp, đồng thời giảm tổn thương phổi do virus PRRS.
Nguồn: Nguyệt Hạ – Báo Đồng Nai